Trước hết, cần
nhấn mạnh rằng phát triển khoa học và công nghệ luôn được Đảng và Nhà
nước hết sức quan tâm trong suốt thời kỳ đổi mới. Minh chứng điển hình
là Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 24/12/1996 của Hội nghị Trung ương 2
khóa VIII, Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 của Hội nghị Trung ương
6 khóa XI, Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị khóa
XIII, Kết luận số 69-KL/TW ngày 11/1/2024 của Bộ Chính trị khóa XIII,
bên cạnh việc khẳng định khoa học và công nghệ "là quốc sách hàng đầu"
đã đặt ra nhiều giải pháp để thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ;
Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 đã thể chế hóa Nghị quyết 20 tạo
hành lang pháp lý cho khoa học và công nghệ phát triển với nhiều cơ chế,
chính sách mới phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế…
Nhưng sau nhiều năm triển khai thực hiện, các chủ trương chính sách này
vẫn chậm được thể chế hóa, chưa phát huy được tác dụng thúc đẩy quá
trình đổi mới.
Thực tế thời gian qua cho thấy, cơ chế thực thi để
đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống chưa thực sự hiệu quả, tư duy của
hệ thống quản lý chậm đổi mới, dẫn tới các giải pháp bị vô hiệu hóa hoặc
thực hiện không triệt để. Vì vậy, cho đến nay có thể nói khoa học và
công nghệ Việt Nam vẫn chưa thực sự thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững, chưa tương xứng với vai trò "nền tảng, động
lực" và "quốc sách hàng đầu" như kỳ vọng.
5 đột phá của Nghị quyết 57
Giờ
đây, trong bối cảnh cuộc cách mạng chuyển đổi số, lần đầu tiên tại Nghị
quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, khoa học, công nghệ
cùng với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được đặt lên vị trí "là đột phá
quan trọng hàng đầu" với những mục tiêu quan trọng, cụ thể cùng các
giải pháp quyết liệt chưa từng có.
Điểm đột phá đầu tiên đó
là Đảng ta đã đặt ra các mục tiêu cụ thể ở mức cao đến năm 2030 và 2045
để Việt Nam có thể trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao.
Theo
đó, đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm
50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển
Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu
và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh
vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Đến 2045 Việt Nam
có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50%, thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế
giới về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Đây là những mục tiêu rất
khó, muốn đạt được đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực rất lớn.
Điểm đột phá thứ hai là Nghị quyết 57 xác định phải tăng đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Cụ
thể, đến 2030, kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2%
GDP, trong đó kinh phí từ đầu tư xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3%
tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới
sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển.
Đây
là một mục tiêu khá thách thức nếu chúng ta nhìn lại tình hình đầu tư
nhiều năm qua, chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ giảm dần
và thường dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước, không năm nào đạt mức mà
Nghị quyết 20 và Luật Khoa học và Công nghệ 2013 quy định.
Nguồn
đầu tư của xã hội chủ yếu đến từ đầu tư của các doanh nghiệp, do nhu cầu
tự thân của doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ và tạo sản phẩm mới có
sức cạnh tranh trên thị trường.
Mặc dù Luật Khoa học và Công nghệ
và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã quy định doanh nghiệp được trích
tối đa 10% thu nhập tính thuế, trong đó doanh nghiệp nhà nước buộc phải
trích tối thiểu 3% thu nhập tính thuế để đầu tư cho R&D thông qua
quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, nhưng do bất cập của cơ chế
quản lý nên đến nay hầu hết doanh nghiệp không thực hiện quy định này.
Việc
tăng đầu tư theo Nghị quyết 57 sẽ tiệm cận với mức đầu tư như các nước
phát triển, qua đó tạo động lực cho cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam
và nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia, nhưng để đạt được
mức đầu tư cao như vậy đòi hỏi phải có chế tài và biện pháp hỗ trợ doanh
nghiệp, thậm chí nên dỡ bỏ trần 10% thu nhập tính thuế và quy định cơ
chế quản lý quỹ của doanh nghiệp thông thoáng hơn, vì doanh nghiệp Việt
Nam hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, cần nguồn tài chính lớn để
chuyển đổi số và đổi mới công nghệ.
Điểm đột phá thứ ba là Nghị quyết 57 đã có đột phá về tư duy trong quản lý đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động R&D.
Theo
đó, ngân sách chi cho nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ ưu
tiên thực hiện theo cơ chế quỹ, thông qua các quỹ phát triển khoa học và
công nghệ.
Tư duy này đã được đề cập tại Nghị quyết 20-NQ/TW năm
2012, nhưng hơn 10 năm qua gần như chúng ta không làm được điều này, bởi
quản lý tài chính vẫn duy trì tư duy cũ, chưa quan tâm đến tính đặc thù
của lĩnh vực khoa học và công nghệ, đầu tư cho nó như lĩnh vực xây dựng
cơ bản.
Ví dụ quy định hiện nay là ngân sách chỉ được cấp cho
nhiệm vụ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trước và thuộc danh mục các
nhiệm vụ trong dự toán ngân sách nhà nước năm trước, vì vậy các nhà
khoa học phải chờ đợi hàng năm mới được cấp kinh phí cho nhiệm vụ đã
được đề xuất và được phê duyệt.
Lần này, Nghị quyết 57 đã quy định
rất cụ thể và nếu có sự chỉ đạo quyết liệt, chắc chắn sẽ tạo ra sự thay
đổi. Bởi cơ chế quỹ là một thông lệ quốc tế, nghĩa là ngân sách nhà
nước tài trợ cho các nhiệm vụ KH&CN (đề tài, đề án, dự án, chương
trình KH&CN…) sẽ được phân bổ trực tiếp cho các quỹ phát triển
KH&CN theo mức vốn điều lệ và khả năng bố trí nguồn ngân sách hằng
năm.
Kinh phí từ các quỹ sẽ được cấp kịp thời theo tiến độ phê
duyệt nhiệm vụ, được chuyển nguồn tự động và được quyết toán một lần khi
kết thúc hợp đồng nghiên cứu. Cách làm này đáp ứng tính thời sự của
hoạt động nghiên cứu, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà khoa học và phù
hợp thông lệ quốc tế.
Điểm đột phá tiếp theo
là Nghị quyết 57 xác định "chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ
trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo".
Bởi
lâu nay các cơ quan quản lý và dư luận xã hội đều quan niệm các nhiệm
vụ nghiên cứu được nhà nước tài trợ phải thành công 100%, và nếu không
thành công sẽ bị coi là lãng phí, gây thất thoát ngân sách nhà nước.
Nhưng
thực tế làm nghiên cứu là phải tìm ra cái mới, vì thế luôn tiềm ẩn khả
năng thất bại, và ngay cả các nước phát triển thì tỷ lệ các đề tài thành
công được áp dụng vào thực tiễn cũng chỉ khoảng 20-30%. Đó cũng là lý
do các nước phát triển có hệ thống quỹ đầu tư mạo hiểm và văn hóa chấp
nhận thất bại trong nghiên cứu, nhờ vậy họ mới có được các doanh nghiệp
kỳ lân, các tập đoàn công nghệ với nhiều sản phẩm công nghệ cao.
Với
quy định mang tính đổi mới tư duy này của Nghị quyết 57 chắc chắn sẽ
khuyến khích các nhà khoa học dám nghĩ, dám làm, dám nhận nhiệm vụ khi
tiếp cận nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi
mới sáng tạo. Bởi họ yên tâm rằng nếu thất bại họ sẽ được miễn trừ trách
nhiệm, cũng như có được bài học kinh nghiệm để giúp họ tránh được thất
bại trong các nhiệm vụ tiếp theo.
Điểm đột phá cuối cùng chính là tính khả thi trong tổ chức thực hiện Nghị quyết.
Lần
đầu tiên người đứng đầu Đảng ta trực tiếp làm Trưởng ban chỉ đạo thực
hiện Nghị quyết và bên cạnh Ban chỉ đạo còn có Hội đồng tư vấn gồm các
nhà quản lý và các nhà khoa học có trình độ và uy tín. Đây là cách làm
khắc phục nhược điểm của các giai đoạn trước đây, khi các Ban chỉ đạo
thường chỉ bao gồm đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, không đủ quyền
lực trong hệ thống chính trị và nặng tư duy nhiệm kỳ.
Để Nghị
quyết của Đảng vào cuộc sống đòi hỏi phải có sự vào cuộc đồng bộ của cả
hệ thống chính trị chứ không chỉ cơ quan hành pháp, phải thay đổi tư duy
của cả bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương, phải xây dựng hành
lang pháp lý đầy đủ có tính khoa học và thực tiễn đối với các quy định
mới mang tính đột phá, phải được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân và
doanh nghiệp, phải phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đây là một quá
trình lâu dài, phức tạp cần có sự chỉ đạo xuyên suốt và quyết liệt từ
người lãnh đạo cao nhất của quốc gia, không giới hạn trong một vài nhiệm
kỳ, phải tập hợp được trí tuệ của tầng lớp tinh hoa trong nước và quốc
tế.
Để nhà khoa học thực sự là nhân tố then chốt
Cũng cần
nói thêm về một nội dung của Nghị quyết 57 khi xác định "nhà khoa học là
nhân tố then chốt", cùng các giải pháp để thu hút, trọng dụng, giữ chân
các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia, các "tổng công trình sư"
trong và ngoài nước. Đặc biệt, trong bối cảnh chúng ta đang triển khai
nhiều dự án lớn quan trọng, như đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, tái khởi
động dự án điện hạt nhân, các dự án vi mạch bán dẫn, nếu không có những
nhà khoa học chủ trì để hình thành tập thể khoa học mạnh, chắc chắn
chúng ta không thể thành công.
Đây không phải là vấn đề mới, mà
nhiều năm qua chúng ta đã nhận thức được vai trò của nhà khoa học trong
phát triển kinh tế xã hội, Nghị quyết 20 cũng đã xác định "có chính sách
trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ khoa học và công nghệ đầu ngành, cán
bộ khoa học và công nghệ được giao chủ trì nhiệm vụ quan trọng của quốc
gia, cán bộ khoa học và công nghệ trẻ tài năng", song thực tế gần như
chúng ta chưa làm được gì, do vướng mắc lớn nhất là bị cản trở bởi quy
định của nhiều luật khác nhau.
Để nhà khoa học thực sự là nhân tố
then chốt, cần phải có các cơ chế, chính sách trọng dụng, đãi ngộ họ tốt
hơn và khả thi hơn. Nghị quyết 57 đã nêu ra được nhiều giải pháp quan
trọng, để thực hiện thì Ban chỉ đạo cần quan tâm đồng bộ không chỉ chế
độ đãi ngộ tiền lương và thu nhập mà quan trọng hơn là tạo điều kiện làm
việc và môi trường sáng tạo, tức là phải tin tưởng, đặt hàng giao nhiệm
vụ cho nhà khoa học, đầu tư cơ sở vật chất tốt nhất, hợp tác quốc tế
thuận lợi nhất, cho họ quyền tự chủ cao nhất về tài chính, tổ chức, nhân
sự, kể cả việc cho họ được quyền thành lập và điều hành doanh nghiệp
KH&CN dựa trên kết quả nghiên cứu, giúp hình thành các tập thể mạnh
trong hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ.
Muốn vậy, chúng
ta phải rà soát sửa đổi một loạt luật có liên quan, ví dụ Luật Khoa học
và Công nghệ, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý và sử dụng tài sản
công, Luật Viên chức, các luật thuế..., để có các cơ chế chính sách thực
sự đột phá, tạo thuận lợi cho nhà khoa học.
Nhiều người nói rằng
các mục tiêu của Nghị quyết 57 đặt ra khá cao và thách thức, nhưng vẫn
có tính khả thi bởi chúng ta đã có quá trình hơn 10 năm triển khai Nghị
quyết 20-NQ/TW năm 2012 và Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013, hơn 5
năm thực hiện Nghị quyết 52 và Chương trình chuyển đổi số quốc gia theo
Quyết định 749/QĐ-TTg, tức đã có sự khởi đầu thuận lợi mang tính nền
tảng cả về lý luận và thực tiễn, tư duy đổi mới quản lý khoa học công
nghệ đã phần nào được chuẩn bị và đáp ứng.
Đặc biệt, những kinh
nghiệm trong tổ chức triển khai Nghị quyết 20 và Nghị quyết 52 giúp biết
rõ nguyên nhân chưa thành công và định vị được giải pháp khắc phục yếu
kém trong chỉ đạo điều hành.
Một số chỉ tiêu chúng ta đang dần
tiệm cận, như với chỉ số TFP hiện đã đạt trên 35%, chỉ số năng lực đổi
mới sáng tạo toàn cầu GII năm 2024 đã đạt vị trí 44/138 quốc gia và vị
trí thứ 2/33 quốc gia thu nhập trung bình thấp, tỷ trọng kinh tế số đạt
gần 18% GDP. Đây là cơ sở quan trọng để chúng ta có niềm tin Nghị quyết
57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển
đổi số sẽ được thực hiện thành công!
TS. NGUYỄN QUÂN
Nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ
Chủ tịch Hội Tự động hóa Việt Nam
Nguồn: baochinhphu.vn (30/1/2025).