Theo
Nghị định, nguyên tắc trong quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể là bảo đảm các di sản văn hóa phi vật thể được thực
hành hướng con người, cộng đồng tới các giá trị văn hóa tốt đẹp; gìn giữ
bản sắc; hướng tới sự phát triển xã hội toàn diện; bảo đảm an toàn cộng
đồng và xã hội; bảo vệ môi trường; Bảo đảm tôn trọng sự đa dạng văn
hóa, vai trò của cộng đồng chủ thể và tính đặc thù dân tộc, vùng miền.
Di sản văn hóa phi vật thể của các cộng đồng khác nhau đều được tôn
trọng như nhau.
Ưu tiên bảo vệ các di
sản văn hóa phi vật thể có nguy cơ bị mai một, thất truyền, di sản của
cộng đồng các dân tộc sinh sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, nhóm dân tộc có khó khăn, đặc thù, di sản có giá trị toàn
cộng đồng, xã hội.
Ưu tiên quyền
quyết định của cộng đồng chủ thể vì sự tồn tại, thực hành lâu dài, liên
tục của di sản, phù hợp với ý nghĩa và chức năng của di sản, phù hợp với
pháp luật về di sản văn hóa của Việt Nam và văn kiện quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
Kiểm kê 07 loại hình di sản văn hóa phi vật thể
Nghị quyết nêu rõ, việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể được thực hiện đối với 07 loại hình di sản sau đây:
1.
Tiếng nói chữ viết gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng, được thể
hiện thông qua ngôn ngữ, ký tự để truyền đạt thông tin, trao truyền kiến
thức, ký ức và các giá trị văn hóa, xã hội của cộng đồng;
2.
Ngữ văn dân gian gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng, được thể hiện
bằng những tác phẩm do cộng đồng sáng tạo, thực hành gồm các câu chuyện,
truyền thuyết, giai thoại, sử thi, truyện ngụ ngôn, truyện cười, tiếu
lâm, ca dao, tục ngữ và các bài hát dân ca, hò vè, câu đố và những biểu
đạt văn hóa tương đồng khác được truyền miệng qua nhiều thế hệ, phản ánh
văn hóa, tập quán, tín ngưỡng và nhận thức của cộng đồng nhằm phục vụ
trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng;
3.
Nghệ thuật trình diễn dân gian gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng,
được thể hiện thông qua các hình thức diễn xướng do cộng đồng sáng tạo
và thực hành gồm âm nhạc, hát, múa, trò diễn và các hình thức trình diễn
khác, xuất phát từ đời sống văn hóa, tâm linh, lao động sản xuất của
cộng đồng và phục vụ trực tiếp cho nhu cầu thể hiện và hưởng thụ văn hóa
của cộng đồng;
4. Tập quán xã hội
và tín ngưỡng gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng, được cộng đồng
thực hành thông qua các hoạt động thường xuyên mang tính nghi lễ, cách
thức thể hiện niềm tin hoặc mong muốn của cá nhân, cộng đồng gắn với các
sự kiện quan trọng, nhận thức về thế giới, lịch sử và ký ức;
5.
Nghề thủ công truyền thống gồm các biểu đạt văn hóa được thể hiện thông
qua việc thực hành, sáng tạo của nghệ nhân, cộng đồng theo hình thức
thủ công với kỹ thuật, hình thức, trang trí, nghệ thuật, nguyên vật liệu
có yếu tố bản địa và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác để
tạo ra các sản phẩm có tính độc bản, mang bản sắc văn hóa cộng đồng;
6.
Lễ hội truyền thống gồm tập hợp nhiều biểu đạt văn hóa mang tính nghi
lễ do cộng đồng sáng tạo, thực hành; được cộng đồng thực hành theo chu
kỳ tại không gian văn hóa liên quan để thực hiện các chức năng: nhận
thức về tự nhiên và xã hội, giáo dục nhân cách, điều chỉnh hành vi ứng
xử, giao tiếp giữa con người với tự nhiên và với con người, giải trí
cộng đồng và bảo đảm tính kế tục của lịch sử;
7.
Tri thức dân gian gồm các biểu đạt văn hóa của cộng đồng được hình
thành từ mối quan hệ qua lại trong lịch sử giữa cộng đồng với môi trường
thiên nhiên, môi trường xã hội để thích ứng, tồn tại và thể hiện thông
qua các kinh nghiệm, kiến thức, kỹ năng ứng xử linh hoạt, hài hòa với tự
nhiên và xã hội.
Thời gian kiểm kê từ 3-6 năm
Thời gian kiểm kê được thực hiện như sau:
Đối với di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách đại diện: 06 năm một lần hoặc theo quy định khác của UNESCO;
Đối với di sản văn hóa phi vật thể trong Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp: 04 năm một lần hoặc theo quy định khác của UNESCO;
Đối với di sản văn hóa phi vật thể trong Danh mục của quốc gia: 03 năm một lần tính từ thời điểm được ghi danh.
Tổ chức liên hoan giới thiệu về văn hóa phi vật thể
Liên
hoan di sản văn hóa phi vật thể (gọi là Liên hoan) là hoạt động bảo vệ
di sản được cam kết trong hồ sơ trình UNESCO, bao gồm: tổ chức thực
hành, trình diễn của cộng đồng chủ thể; trưng bày, triển lãm, giới
thiệu, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và năng lực của cộng đồng, giáo
dục, quảng bá về di sản văn hóa phi vật thể.
Thẩm
quyền tổ chức Liên hoan: Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
quyết định việc tổ chức Liên hoan quy mô từ 02 đơn vị hành chính cấp
tỉnh trở lên, quốc gia và quốc tế tại Việt Nam.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định việc tổ chức Liên hoan trên địa bàn.
Liên hoan được tổ chức theo quy mô và định kỳ như sau:
Liên
hoan tất cả các loại hình di sản văn hóa phi vật thể do cơ quan chức
năng về quản lý di sản văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ
chức ở quy mô quốc gia, quốc tế tại Việt Nam theo định kỳ 03 năm một
lần;
Liên hoan từng loại hình di sản
văn hóa phi vật thể quy mô quốc gia ở trong nước do cơ quan chức năng về
quản lý di sản văn hóa thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức
theo định kỳ 01 năm một lần;
Liên
hoan di sản văn hóa phi vật thể có phạm vi 02 tỉnh, thành phố trở lên do
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có di
sản đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét, quyết định khi có
sự thống nhất của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn lại để
tổ chức luân phiên 02 năm một lần.
Lan Phương
Nguồn: chinhphu.vn (16/4/2024)