Hai cái tên Võ Nguyên Giáp và Điện
Biên Phủ có lẽ trong lịch sử Việt Nam cận - hiện đại là từ khóa được tìm
kiếm nhiều nhất, dù rằng chưa có sự thống kê cụ thể.
Điện Biên Phủ - tiếng sấm chấn động địa cầu
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ
kết thúc với sự toàn thắng thuộc về quân và dân Việt Nam. Có thể nói,
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ là chiến thắng vĩ đại nhất, giáng đòn quyết định, tạo bước
ngoặt làm thay đổi cục diện chiến tranh, trực tiếp đưa đến việc ký kết
Hiệp định Geneva chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã dẫn đến sự
thất bại hoàn toàn của Kế hoạch quân sự Nava, đập tan âm mưu và ý chí
xâm lược của Pháp, dưới sự giúp đỡ của Mỹ.
Điện Biên Phủ vốn không có trong kế
hoạch quân sự của Tướng Nava và cũng không có trong kế hoạch tác chiến
trong Đông Xuân 1953-1954 của quân và dân Việt Nam được đề ra trong Hội
nghị Bộ chính trị Trung ương Đảng (9/1953). Nhưng Điện Biên Phủ đã trở
thành điểm hẹn lịch sử, trở thành nơi tiến công chiến lược của quân đội
nhân dân Việt Nam, nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược để kết thúc
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam kéo dài từ tháng 12/1946 trên
phạm vi cả nước.
 |
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, tháng 12/1953. Ảnh tư liệu |
Điện Biên Phủ đã trở thành nơi gặp gỡ,
đối đầu trực tiếp giữa lực lượng quân đội viễn chinh Pháp (được tập
trung đến mức cao nhất chưa từng thấy trong cuộc chiến tranh xâm lược
Đông Dương lần thứ hai) và lực lượng quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
với ý chí quyết tâm đánh thắng kẻ thù xâm lược.
Hay nói khác đi, Điện Biên Phủ đã trở
thành nơi đối đầu giữa trí tuệ, văn hóa quân sự Pháp với ý chí quyết tâm
và nghệ thuật quân sự tài tình của quân đội và nhân dân Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam cùng với học thuyết quân sự Hồ
Chí Minh.
Cuối cùng, “điểm hẹn lịch sử” Điện Biên
Phủ đã ghi dấu ấn sâu đậm với sự toàn thắng của quân dân Việt Nam - một
nước thuộc địa được cho là lạc hậu, thấp kém - trước một tập đoàn quân
đội hùng mạnh, thiện chiến, hiện đại của Pháp.
Và để có được tiếng sấm Điện Biên Phủ
chấn động địa cầu, không thể không nhắc đến vai trò của vị Đại tướng
huyền thoại Võ Nguyên Giáp.
Quyết định khó khăn của vị tướng huyền thoại
Đương nhiên là, chiến thắng của quân và
dân ta ở lòng chảo Điện Biên Phủ trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp năm 1954, không phải là chiến thắng được làm nên bởi một mình Đại
tướng Võ Nguyên Giáp. Và sinh thời, ông cũng chưa bao giờ nhận đó là
chiến thắng của riêng ông.
Nhưng thực tiễn lịch sử đã cho thấy,
chiến thắng này đã ghi dấu ấn tài năng của ông trong danh mục 1/10 vị
danh tướng nổi tiếng nhất trên thế giới.
Tài năng của ông ở chiến dịch này được
thể hiện ở nhiều khía cạnh như: Lên kế hoạch và tổ chức các cuộc tiến
công phá chủ trương tập trung quân của H. Nava để dọn đường đến Điện
Biên Phủ; chỉ đạo chuẩn bị hậu cần cho trận quyết chiến chiến lược; xác
định cách đánh, phương pháp tấn công địch…
Nhưng dấu ấn quan trọng của ông chính là
việc quyết định phương châm tác chiến ở chiến dịch Điện Biên Phủ để đảm
bảo cho chiến dịch này được toàn thắng.
 |
Bút tích của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chiến dịch lịch sử. Ảnh tư liệu |
Hồi ký của ông nêu rất rõ về quyết định
khó khăn này, ông viết: “Đêm 25 tháng 1, tôi thao thức. Đầu đau nhức.
Đồng chí bác sĩ buộc trên trán tôi một nắm ngải cứu.
Khi nghe anh Thái nói lần đầu ở Tuần
Giáo về khả năng đánh nhanh thắng nhanh, tôi đã thấy nếu ta làm như vậy
là mạo hiểm. Từ đó tới nay đã nửa tháng qua. Tình hình địch đã thay đổi
rất nhiều. Quân số của chúng không còn là mười tiểu đoàn, mà theo tin
của quân báo đã lên tới hơn mười ba tiểu đoàn. Chúng đã củng cố công sự
phòng ngự, không còn là trận địa dã chiến. Bộ đội sẽ phải tiến hành một
trận công kiên lớn tiêu diệt tập đoàn cứ điểm phòng ngự vững chắc rất
mạnh, được sự yểm trợ của lực lượng không quân, pháo binh, thiết giáp
tại chỗ, và chắc chắn còn được ưu tiên yểm trợ số 1 của lực lượng không
quân địch ở miền Bắc Đông Dương…
Ba khó khăn hiện lên rất rõ.
Thứ nhất, bộ đội chủ lực ta đến nay chỉ
mới tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường, có công sự vững
chắc, ở Nghĩa Lộ. Khi đánh vào tập đoàn cứ điểm Nà Sản, chúng ta mới
đánh từng tiểu đoàn địch trong công sự dã chiến, mà còn đánh rất dở!
Thứ hai, trận này ta không có xe tăng,
máy bay nhưng hợp đồng bộ binh, pháo binh quy mô cũng là lần đầu, bộ đội
lại chưa qua diễn tập. Vừa qua, đã có trung đoàn trưởng xin trả bớt
súng, vì không biết phối hợp như thế nào!
Thứ ba, bộ đội từ trước tới nay mới chỉ
quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn náu. Chủ lực ta chưa có
kinh nghiệm tác chiến ban ngày trên địa hình bằng phẳng, với một kẻ địch
có ưu thế về máy bay, pháo binh và xe tăng. Trận đánh sẽ diễn ra trên
một cánh đồng dài 13km và rộng 6km... Tất cả những khó khăn này ta đều
chưa bàn cách giải quyết...”.
Sau đó, vị tướng huyền thoại gọi cho
pháo binh: “Tình hình địch đã thay đổi. Quyết tâm tiêu diệt Trần Đình
(bí danh của Điện Biên Phủ trong chiến dịch) vẫn giữ vững. Nay thay đổi
cách đánh. Vì vậy, ra lệnh cho các đồng chí từ 17 giờ hôm nay, kéo pháo
ra khỏi trận địa, lui về địa điểm tập kết, chuẩn bị lại. Triệt để chấp
hành mệnh lệnh! Không giải thích”.
Chính quyết định thay đổi phương châm
tác chiến từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc" của Đại
tướng đã giúp cho trận quyết chiến chiến lược của quân và dân ta giành
được thắng lợi trọn vẹn.
Và Điện Biên Phủ từ một địa phương, một
lòng chảo “vô danh” ở vùng rừng núi Tây Bắc đã trở thành một địa danh
nổi tiếng trên bàn đàm phán ở Geneva (Thụy Sĩ), trên bản đồ Việt Nam và
thế giới.
Cần nhớ rằng, quyết định thay đổi cách
đánh, phương châm tác chiến không chỉ được Đại tướng tiến hành một lần ở
chiến dịch Điện Biên Phủ, mà trước đó, ông đã từng ít nhất một lần đưa
ra quyết định này, đó là chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950.
Hồi ký của ông viết: “Qua chuyến đi
nghiên cứu thực địa Cao Bằng, tôi càng nhận thấy không thể chọn thị xã
này làm điểm đột phá cho chiến dịch”.
Ông phân tích: “Đánh Cao Bằng sẽ khó bảo
đảm nguyên tắc “trận đầu phải thắng của quân đội ta. Và nếu đánh thắng,
cũng khó tránh khỏi tổn thất lớn trong khi ta chỉ tiêu diệt được một bộ
phận nhỏ quân địch: 2 tiểu đoàn!
Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt một
bộ phận quan trọng sinh lực địch và giải phóng Cao Bằng. Làm cách nào
để đạt được mục tiêu này? Tôi nghĩ cách mở đầu chiến dịch tốt nhất vẫn
là đánh Đông Khê. Đông Khê là cứ điểm quan trọng nối liền Thất Khê với
Cao Bằng.
Cứ điểm Đông Khê mặc dù được củng cố,
vẫn nằm trong khả năng tiêu diệt của bộ đội ta. Mất Đông Khê, địch hoặc
sẽ phải chiếm lại, hoặc sẽ phải rút khỏi Cao Bằng. Ta sẽ có điều kiện
tiêu diệt sinh lực địch ngoài công sự. Nếu địch không chiếm lại Đông
Khê, ta sẽ đánh tiếp Thất Khê”.
Điều này cho thấy, ông là người đã nắm
rất sát và chắc thực tiễn chiến trường và khả năng của quân và dân ta,
để lựa chọn mục tiêu sao cho vừa sức, đảm bảo thắng lợi. Và thắng lợi
của quân và dân ta ở chiến dịch Biên giới Thu Đông năm 1950 đã làm thay
đổi cục diện của cuộc kháng chiến, và phần nào đó là dọn đường để đưa
đến điểm hẹn Điện Biên Phủ.
Nền tảng để đưa đến những quyết định
“táo bạo”, quyết đoán đó của ông, ngoài trí tuệ của cá nhân thì còn là
nhờ ở chỉ dẫn, dặn dò của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhất là quyết
định thay đổi phương châm kế hoạch tác chiến ở Điện Biên Phủ.
Như vậy, có thể nói, Điện Biên Phủ là
nơi đã ghi lại dấu ấn tài năng của một vị tướng huyền thoại trong lịch
sử Việt Nam cận - hiện đại. Và ngược lại, chính Đại tướng Võ Nguyên Giáp
là người đã ghi tên địa danh Điện Biên Phủ trên bản đồ thế giới, nhất
là “bản đồ” về những trận quyết chiến chiến lược.