 |
Lực lượng dân công vận chuyển lương thực ra mặt trận Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu |
Đợt học tập chính trị đã mang lại cho
mọi người niềm tin vững chắc ở thắng lợi. Chưa lúc nào kho của mặt trận
đầy đủ, sung túc thóc gạo bằng thời kỳ này. Vào cuối tháng 4, hậu cần đã
có dự trữ cho tháng 5. Về đạn cho lựu pháo, ngoài 5.000 viên thu được
của địch tại mặt trận Điện Biên Phủ còn có hơn 400 viên đạn chiến lợi
phẩm thu được ở Trung Lào, đã được ngành hậu cần chuyển ra tới mặt trận.
Đây sẽ là một bất ngờ lớn dành cho quân địch vào những ngày tiến công
cuối cùng. Sau đợt 2 chiến dịch, chỉ trong 10 ngày ta đã xây dựng xong
một tiểu đoàn ĐKZ 75mm và một tiểu đoàn H6 (hỏa tiễn) do Trung đoàn 676
phụ trách, kịp thời bổ sung cho mặt trận.
 |
Đoàn ngựa thồ hàng hóa trên đường ra chiến dịch. Ảnh tư liệu |
Trung đoàn 9 thuộc Đại đoàn 304, lên
Tây Bắc từ trung tuần tháng 3 hoàn thành công tác tiễu phỉ và đã nhanh
chóng tới tham gia tại mặt trận Điện Biên Phủ. Đại đoàn 304 (thiếu một
trung đoàn) là đại đoàn cuối cùng có mặt trong đội hình chiến đấu.
Mở đầu kế hoạch đợt 3 là tiếp tục hoàn
thành nốt những nhiệm vụ đã đề ra trong đợt 2: Tiêu diệt hoàn toàn hai
cao điểm A1 và C1, đồng thời đánh chiếm thêm một số cứ điểm ở phía Tây
và phía Đông, thu hẹp thêm phạm vi chiếm đóng của quân địch, chuẩn bị
cho tổng công kích. Nhiệm vụ được giao cho các đơn vị như sau:
Đại đoàn 316 được phối thuộc Trung đoàn 9
của Đại đoàn 304 (thiếu 1 tiểu đoàn) có nhiệm vụ tiêu diệt A1, C1 và
C2; Đại đoàn 312 tiêu diệt các cứ điểm 505, 505A, 506, 507, 508 ở phía
Đông, tiến sát bờ sông Nậm Rốm; Đại đoàn 308 tiêu diệt các cứ điểm 311A,
311B ở phía Tây; Trung đoàn 57 thuộc Đại đoàn 304 được phối thuộc 1
tiểu đoàn của Trung đoàn 9 có nhiệm vụ cử 1 tiểu đoàn chốt chặn trên
đường đi Tây Trang không cho quân địch rút chạy sang Lào, siết chặt vòng
vây xung quanh Hồng Cúm, tập kích trận địa pháo binh, tiêu diệt khu C
Hồng Cúm; Đại đoàn 351 phối hợp với bộ binh trong các trận đánh điểm và
đánh phản kích.
Thời gian chiến đấu bắt đầu từ 1-5-1954
đến 5-5-1954. Nhiệm vụ trọng tâm của đợt này là tiêu diệt cho được A1.
Từ sau đợt tiến công khu Đông, A1 trở thành điểm nhức nhối đối với các
đơn vị tham gia chiến dịch.
 |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao nhiệm vụ cho các đơn vị trên sa bàn tại Sở chỉ huy Mặt trận Điện Biên Phủ. Ảnh tư liệu |
Trong cuốn Hồi ký "Điện Biên Phủ - Điểm
hẹn lịch sử", Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã viết: "Tôi đã
nhiều lần trao đổi trong cơ quan tham mưu về cao điểm A1. Chúng ta tìm
được một người dân địa phương ngày trước tham gia xây dựng ngôi nhà trên
đồi này. Theo kể lại thì đó là một ngôi nhà tuy kiên cố, nhưng không có
gì là đặc biệt, khi mới xây không có hầm ngầm. Nghe bộ đội tả lại căn
hầm, người dân cho rằng có thể quân Nhật trong thời gian đóng ở Điện
Biên Phủ đã xây dựng căn hầm này đề phòng máy bay Mỹ ném bom, hoặc có
thể quân Pháp đã cải tạo hầm rượu cũ thành hầm ngầm. Về sau mới biết,
trong hai tháng xây dựng công sự, quân Pháp đã dùng gạch, đá từ ngôi nhà
trên đồi, biến hầm rượu thành một căn hầm trú ẩn tương đối kiên cố với
rất nhiều đất đổ bên trên... Nhưng nó vẫn không thể nào sánh với những
boongke mà bộ đội ta đã từng tiêu diệt ở đồng bằng.
Anh Thái cử cán bộ cơ quan tham mưu cùng
đi trinh sát với cán bộ thuộc Trung đoàn 174, phát hiện một giao thông
hào chạy từ A1 xuống A3 ở phía bờ sông, địch có thể dễ dàng đưa quân ứng
chiến lên phản kích bất cứ lúc nào.
Anh em đề nghị đào một đường hào men
theo đường 41, tách rời A1 với A3, cũng là cắt đứt đường tăng viện của
quân địch. Trung đoàn 174 đề nghị đào thêm một đường hầm từ trận địa của
ta tại A1 tới dưới hầm ngầm, đưa bộc phá với số lượng lớn vào đặt rồi
cho nổ. Đây quả là một kỳ công.
Công binh của đơn vị tính toán sẽ hoàn
thành công trình này trong vòng 14 ngày và bảo đảm đào đúng hướng. Tôi
nói với anh Thái những người trực tiếp đánh Đồi A1 đã đề nghị thì nên
chấp nhận, cử cán bộ kỹ thuật xuống cùng đơn vị giải quyết những khó
khăn về chuyên môn, còn cơ quan theo dõi thật kỹ việc cắt rời A1 với A3,
chỉ khi nào hoàn thành đường hào này mới cho Trung đoàn 174 tiến công.
Đường hầm ở A1 đào chậm hơn dự kiến. Một
đội đặc biệt gồm 25 cán bộ, chiến sĩ do đồng chí Nguyễn Phú Xuyên Khung
trực tiếp chỉ huy, đã tiến hành công việc ngay trước mũi súng quân
địch, trong tầm kiểm soát của lựu đạn. Đất Đồi A1 cực kỳ rắn, Tiểu đội
trưởng Lưu Viết Thoảng lựa chọn một tổ khỏe nhất mở cửa hầm. Cả đêm đầu
chỉ khoét được vào vách núi mỗi chiều 90cm. Địch không ngừng bắn súng và
ném lựu đạn. 3 đồng chí bị thương, bản thân đồng chí Thoảng cũng bị
ngất vì sức ép của lựu đạn. 3 đêm mới đào xong cửa hầm, khi đào sâu vào
lòng núi được 10m, bắt đầu phải khắc phục thêm khó khăn: Thiếu không
khí, đèn, đuốc mang vào hầm đều bị tắt, số đất moi từ lòng núi ra ngày
càng nhiều không được để cho quân địch phát hiện. Các chiến sĩ phòng ngự
tại A1 có kế hoạch chiến đấu không cho quân địch tiến xuống cửa hầm, dù
phải hy sinh tới người cuối cùng, để bảo vệ bí mật tuyệt đối ý đồ đánh
địch của ta.
Trong khi đó, các đơn vị khác đều chuẩn
bị xong, nhiều mũi hào đã luồn sâu dưới hàng rào dây thép gai của địch.
Bộ Chỉ huy Chiến dịch quyết định đúng ngày N các đơn vị đồng loạt nổ
súng, triệt để áp dụng chiến thuật đánh lấn để giảm nhẹ thương vong,
riêng A1 sẽ đánh khi đường hầm ở A1 hoàn thành".
Về phía địch: Mấy ngày gần đây, quân
địch không còn tính tới chuyện đẩy ta ra khỏi A1 và C1, chúng chỉ ra sức
củng cố hầm hào chờ đợi đợt tiến công cuối cùng. Mỗi ngày địch huy động
hơn 100 máy bay đổ lương thực, đạn dược xuống Mường Thanh. Nhưng De
Castries chỉ nhận được khoảng một nửa. Máy bay địch phải bay cao thả dù
để tránh cao xạ tầm trung của ta, khu vực thả dù lại quá hẹp, nên một
phần ba đồ tiếp tế rơi xuống trận địa ta, một số không ít rơi xuống bãi
mìn và những khu vực bị hỏa lực ta kiểm soát chặt nên địch không thể thu
lượm.