Tỉnh đã xây dựng hệ thống khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng hoàn chỉnh từ tỉnh đến cơ sở với 13 bệnh viện, 5 trung tâm y tế tuyến tỉnh; 7 bệnh viện và 21 trung tâm y tế cấp huyện; 2 phòng khám đa khoa khu vực, 460 trạm y tế cấp xã, 14 bệnh viện tư nhân và 755 loại hình y tế khác. Bên cạnh đó, các bệnh viện, trạm xá của quân đội, công an đóng trên địa bàn đã tiếp nhận khám, chữa bệnh từ cơ sở, giảm áp lực cho tuyến trên; từng bước khắc phục tình trạng quá tải ở bệnh viện, đóng góp hiệu quả trong công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân.
Nhiều dịch vụ kỹ thuật của tuyến trên được áp dụng tại tuyến cơ sở đã góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh cho Nhân dân. Ảnh Báo Nghệ An
Trong những năm qua, Sở Y tế đã chỉ đạo các bệnh viện tuyến tỉnh tăng cường chuyển giao kỹ thuật, đào tạo liên tục về chuyên môn kỹ thuật liên quan đến hoạt động khám bệnh, chữa bệnh cho các Trung tâm y tế các huyện biên giới, nhằm nâng cao năng lực khám chữa bệnh cho các xã biên giới, vùng sâu, vùng xa. Qua đó năng lực khám chữa bệnh các trạm y tế không ngừng nâng cao và ngày càng được cải thiện, nhiều trạm y tế đã có bác sĩ siêu âm, điện tim. Đến năm 2022, tỷ lệ xã có bác sĩ công tác đạt 91,09%. Đến nay, tỷ lệ khối, xóm, bản có nhân viên phụ trách công tác y tế, dân số trên toàn tỉnh đạt 93,8%.
Nhân lực y tế cơ sở trong những năm qua đã tăng cả về số lượng và chất lượng. Tính đến tháng 12/2022, tuyến huyện có 4.058 người làm việc; tuyến xã có 2.613 người làm việc. Tỷ lệ Trạm y tế xã có bác sĩ công tác cơ hữu tăng từ 71,9% năm 2018 lên 78,1% năm 2022; bác sĩ công tác sau khi được điều động tăng cường bác sĩ từ tuyến trên và hợp đồng bác sĩ nghỉ hưu tăng từ 90% năm 2018 lên 91,9% năm 2022. Y tế xóm, bản có 3540/3807 nhân viên y tế xóm bản kiêm nhiệm công tác dân số và công tác viên dân số khối kiêm nhiệm công tác y tế. Trong những năm qua, ngành y tế đã từng bước bố trí, sắp xếp đội ngũ viên chức y tế tuyến xã theo cơ cấu ngạch, bậc và chức danh chuyên môn theo quy định.
Giai đoạn 2002-2012, tỉnh đã tập trung đầu tư hoàn thành 20 dự án đầu tư cải tạo, nâng cấp các bệnh viện đa khoa tuyến huyện, 18 Trung tâm Y tế được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới và 64 Trạm y tế xã được đầu tư xây dựng. Cơ sở hạ tầng y tế tuyến huyện thay đổi cơ bản, các bệnh viện và trung tâm y tế có cơ sở vật chất khang trang, tương đối đồng bộ và nhiều máy móc, trang thiết bị hiện đại.
Ngành Y tế đã xây dựng và triển khai hiệu quả Đề án mô hình điểm về tăng cường năng lực y tế cơ sở tại 6 xã của huyện Nam Đàn và nhân rộng mô hình toàn tỉnh; triển khai công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân tại tuyến xã theo nguyên lý y học gia đình. Thiết lập hệ thống sổ sức khỏe điện tử. Hiện nay, 100% cơ sở khám chữa bệnh từ tỉnh, huyện, xã đã triển khai phần mềm quản lý khám, chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế, kết nối liên thông dữ liệu với Cổng giám định bảo hiểm y tế.
Cơ sở hạ tầng tiếp tục được đầu tư, nhiều dự án được đưa vào danh mục công trình trọng yếu của ngành và dự án trọng điểm của tỉnh với phương châm đầu tư hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện đại. Ngành y tế Nghệ An đã huy động nguồn lực đầu tư trang thiết bị cho các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh thông qua các nguồn vốn WB, ODA, quỹ toàn cầu, trái phiếu Chính phủ.
Phấn đấu năm 2030, 100% các đơn vị là tuyến cuối khu vực Bắc Trung Bộ được đầu tư đầy đủ trang thiết bị hiện đại
Về nhiệm vụ trong thời gian tới, UBND tỉnh yêu cầu các cơ quan, đơn vị cần tăng cường vai trò công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, hướng dẫn đôn đốc và tăng cường kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực khám chữa bệnh, các quy định về phòng chống dịch, vệ sinh môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm...
Phấn đấu đến năm 2025, sẽ phát triển Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh đạt hạng I và trở thành trung tâm vùng Bắc Trung Bộ; đảm bảo 95% Trạm y tế xã, phường, thị trấn quản lý một số bệnh không lây nhiễm, trong đó chú trọng tăng huyết áp, đái tháo đường. Hàng năm, trên 90% số cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm được thanh tra, kiểm tra, giám sát điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm; khống chế ở mức thấp nhất số vụ ngộ độc thực phẩm lớn và tử vong do ngộ độc thực phẩm, giảm tỷ lệ mắc ngộ độc thực phẩm được ghi nhận xuống còn dưới 6 trường hợp/100.000 dân.
Đến năm 2030, 100% cơ sở khám chữa bệnh triển khai bệnh án điện tử; trên 95% người dân được quản lý sức khỏe; 100% các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện chẩn đoán, điều trị từ xa. 100% các đơn vị là tuyến cuối khu vực Bắc Trung Bộ được đầu tư đầy đủ trang thiết bị hiện đại; đảm bảo và duy trì 100% các cơ sở khám chữa bệnh tuyến huyện được trang bị đầy đủ hệ thống trang thiết bị phục vụ cho công tác khám chữa bệnh về các lĩnh vực: Hồi sức cấp cứu, nhi, chấn thương. Đảm bảo 100% các bệnh viện trên địa bàn có bộ phận dược lâm sàng; duy trì 100% cơ sở kinh doanh thuốc thuộc hệ thống phân phối thuốc đạt tiêu chuẩn thực hành tốt (GPP). Có trên 95% các cơ sở thuộc đối tượng cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm có giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm.
Cùng với đó, nâng cao chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng ở tất cả các tuyến, đặc biệt chú trọng phát triển các kỹ thuật cao, chuyên sâu trên địa bàn để thành phố Vinh là Trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực Bắc Trung Bộ. Phát triển ngành dược theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa; xây dựng hệ thống phân phối, cung ứng thuốc hiện đại, chuyên nghiệp và tiêu chuẩn hóa. Tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là với các Ngân hàng Quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ để thu hút đầu tư phát triển lĩnh vực y tế...
Kim Oanh (tổng hợp)
(Nguồn: Báo cáo số 187/BC-UBND ngày 22/3 về việc tổng kết 20 năm thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 22/01/2002 của Ban Bí thư về củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở; 10 năm thực hiện Thông báo Kết luận số 126-TB/TW ngày 1/4/2013 của Ban Bí thư khóa IX)