Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo được triển khai đồng bộ và mang lại hiệu quả tích cực
Ngay từ khi Luật Tài nguyên, môi
trường biển và hải đạo có hiệu lực thi hành, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo các cấp chính quyền cấp tỉnh tổ chức triển khai thực hiện
có hiệu quả Luật; đồng thời triển khai ban hành nhiều văn bản định hướng, chỉ
đạo về biển, hải đảo trên địa bàn tỉnh. Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tài
nguyên, môi trường biển và hải đảo và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn
thi hành Luật đã được triển khai đồng bộ và mang lại hiệu quả tích cực.
Các ngành kinh tế biển của tỉnh phát
triển theo hướng bền vững
Với
sự chỉ đạo sát sao của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các Sở, ban, ngành, kinh tế biển của
tỉnh đã đạt được nhiều thành tựu. Tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm của
vùng ven biển năm 2023 tăng 8,39 % so với năm 2022. Các ngành kinh tế biển của
tỉnh đã phát triển theo hướng bền vững, kiểm soát tài nguyên trong khả năng
phục hồi của hệ sinh thái biển. Giá trị tăng thêm của kinh tế vùng ven biển vào
GRDP chung toàn tỉnh năm 2023 đạt 27,59 % (năm 2022 đạt 27,28 %). Tỷ trọng
nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 25,4%, công nghiệp - xây dựng chiếm 37,35%,
dịch vụ chiếm 37,25%. Năm 2023 giá trị tăng thêm bình quân đầu người vùng ven
biển đạt 52,74 triệu đồng/người/năm, tăng hơn 10 % so với năm 2022 (47,56 triệu
đồng/người/năm). Các ngành kinh tế biển của tỉnh đã phát triển theo hướng bền
vững, kiểm soát tài nguyên trong khả năng phục hồi của hệ sinh thái biển.
Giao thông vận tải biển được đầu tư phát triển. Tỉnh đã tập trung kêu gọi, thu hút đầu tư phát triển hạ
tầng hệ thống cảng biển; đẩy mạnh đầu tư cải tạo, nâng cấp tuyến luồng hàng
hải; thực hiện nạo vét duy tu các luồng hàng hải đảm bảo cho các tàu trọng tải
lớn cập bến ở các cảng biển; cải tạo nâng cấp hệ thống đê chắn sóng; tiếp tục
chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện các dự án giao thông trọng điểm
ven biển.
Du
lịch biển, đảo được chú trọng phát
triển. Nghệ An đã nỗ lực trong việc đa dạng hóa các sản phẩm du lịch
biển, đảo nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch; xây dựng mô hình du lịch trải
nghiệm làng nghề ven biển, mô hình phát triển kinh tế ban đêm phù hợp với từng
địa phương, trước mắt triển khai tại thành phố Vinh và thị xã Cửa Lò để phục vụ
khách du lịch. Tập trung liên kết, phối hợp các điểm đến du lịch tại các địa
phương ven biển với các điểm đến khác trong tỉnh nhằm tăng cường quảng bá, đáp
ứng tốt hơn nhu cầu của du khách; đẩy mạnh khai thác tuyến du lịch Vinh, Cửa Lò
đi Quỳ Châu, Quế Phong theo quốc lộ 48 gắn với các điểm du lịch ven biển
Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Hoàng Mai và Khu sinh thái Mường Thanh Diễn Lâm...; mở
rộng tuyến du lịch trên sông Lam gắn với tuyến du lịch thủy nội địa Cửa Lò -
Đảo Ngư; đồng thời tăng cường gắn kết du lịch Vinh, Cửa Lò với các tỉnh trong
vùng.
Khai
thác thủy sản đang phát triển đúng với định hướng của ngành. Công tác thống kê,
rà soát tàu cá trên địa bàn tỉnh đang được thực hiện để phục vụ công tác quản
lý tàu cá cũng như định hướng phát triển nghề cá trong thời gian tới. Công tác
chống khai thác IUU được triển khai một cách quyết liệt, đồng bộ.
Hiện nay, tỉnh
đang tập trung thu hút đầu tư một số dự án, công trình điện năng lượng mặt
trời, năng lượng gió tại vùng ven biển như dự án điện mặt trời nổi hồ Vực Mấu
với quy mô công suất 200 MWp đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận quy hoạch
bổ sung vào danh mục quy hoạch điện VII điều chỉnh. Một số dự án như điện gió
tại xã Quỳnh Lập, thị xã Hoàng Mai và dự án điện mặt trời ở xã Tân Thắng, huyện
Quỳnh Lưu đang được đề xuất vào quy hoạch điện VIII. Hiện nay một số nhà đầu tư
đang nghiên cứu đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi tại địa bàn huyện Quỳnh
Lưu, Diễn Châu.
Trên
cơ sở Quyết định số 1179/QĐ-TTg ngày 04/8/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch tỉnh Nghệ An thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến
2050, tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu tích hợp quy hoạch
khoáng sản trong quy hoạch tỉnh. Bên cạnh đó, tập trung chỉ đạo nâng cao hiệu
quả khai thác các tài nguyên khoáng sản biển vùng ven biển gắn với chế biến sâu
trong đó có titan và cát trắng thạch anh...; kết hợp hài hoà giữa khai thác,
chế biến với bảo vệ môi trường, bảo tồn hệ sinh thái biển.
Công tác kiểm soát ô nhiễm môi
trường biển và hải đảo cơ bản được quan tâm thực hiện
Hiện
nay, các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
mới chỉ dừng lại việc lồng ghép vào một số đề tài, dự án riêng lẻ của từng
ngành. Vì vậy, trong thời gian tới tỉnh tiếp tục có nhu cầu điều tra cơ bản các
dạng tài nguyên biển tại vùng biển xa bờ có tiềm năng khai thác phục vụ phát
triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, các dữ liệu thông tin về địa hình đáy biển,
cấu trúc địa vật lý biển tại vùng biển Nghệ An cũng cần được điều tra đánh giá
chính xác, khoa học. Hiện UBND tỉnh đã ban hành Danh mục thủ tục hành
chính về biển, đảo thuộc phạm vi quản lý của Sở TN&MT, UBND cấp huyện; đồng
thời phê duyệt quy trình nội bộ, quy trình điện tử các thủ tục hành chính về
biển, đảo.
Công
tác kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo cơ bản đã được UBND tỉnh chỉ
đạo các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Hàng năm, tỉnh lồng ghép các hoạt
động quản lý rác thải nhựa đại dương vào các chương trình...; thực hiện quan
trắc, theo dõi chất lượng nước biển ven bờ với 13 điểm quan trắc, tần suất 02
tháng/1 lần; trong đó tại 4 điểm bãi biển mùa du lịch tăng cường quan trắc
chuyên đề 01 tháng/1 lần đảm bảo 1 tháng/đợt từ tháng 4 đến tháng 8 hàng năm.
Hiện các cơ sở có quan trắc tự động truyền dữ liệu về Sở TN&MT không có cơ
sở nào xả thải trên vùng biển và hải đảo.
Tỉnh
đã chỉ đạo mở rộng nghiên cứu và hợp tác với các nước trong lĩnh vực ứng dụng khoa
học công nghệ phục vụ công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển, dự
báo thiên tai, bảo vệ môi trường biển, quản lý và khai thác tài nguyên biển;
từng bước nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ cho nghiên cứu và khai thác tài
nguyên biển, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới. Huy động được nhiều
nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường vùng ven
biển và biển đảo; thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn
vốn ODA vào các địa phương ven biển và các khu kinh tế, khu công nghiệp, khai
thác cảng, dịch vụ cảng biển, thực hiện nhiều chương trình, dự án về phát triển
kết cấu hạ tầng, giảm nghèo, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, phát
triển bền vững vùng ven biển...
Công
tác hợp tác quốc tế về tài nguyên, môi trường biển đảo mặc dù đã được quan tâm,
tuy nhiên, việc thực hiện công tác hợp tác quốc tế đối với lĩnh vực biển và hải
đảo trên địa bàn tỉnh còn ít; mới dừng lại ở việc phối hợp tham gia, tổ chức
các hội nghị hội thảo có yếu tố nước ngoài.
Kim Oanh (tổng hợp)
(Nguồn: Báo cáo số 314/BC-UBND ngày
24/4 về tổng kết thi hành Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015)