Phát triển nuôi biển trở thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn
Phát triển nuôi biển trở thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn,
công nghiệp, đồng bộ, an toàn, hiệu quả, bền vững và bảo vệ môi trường
sinh thái; tạo ra sản phẩm có thương hiệu, đáp ứng nhu cầu của thị
trường trong nước và xuất khẩu, giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện
kinh tế xã hội và nâng cao thu nhập cho cộng đồng cư dân ven biển; góp
phần tham gia bảo vệ an ninh, quốc phòng vùng biển đảo của Tổ quốc.
Đó là mục tiêu chung của Đề án phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển
đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được Phó Thủ tướng Chính phủ Lê
Văn Thành ký phê duyệt tại Quyết định 1664/QĐ-TTg ngày 4/10/2021.
Đề án đặt mục tiêu cụ thể đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000 ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3;
sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt
0,8-1 tỷ USD. Đến năm 2030, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8-2 tỷ
USD.
Tầm nhìn đến năm 2045, ngành công nghiệp
nuôi biển của nước ta đạt ở trình độ tiên tiến với phương thức quản lý
hiện đại. Công nghiệp nuôi biển trở thành bộ phận quan trọng trong ngành
thủy sản, có đóng góp trên 25% tổng sản lượng và giá trị kim ngạch xuất
khẩu đạt trên 4 tỷ USD.
Đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi biển
Nội dung, nhiệm vụ của Đề án là phát
triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi biển. Cụ thể, rà soát,
đánh giá về thực trạng và nhu cầu hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ phát
triển nuôi biển làm cơ sở đầu tư sản xuất.
Đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ,
hiện đại phục vụ phát triển nuôi biển xa bờ bao gồm các hạng mục hạ tầng
thiết yếu vùng sản xuất giống phục vụ nuôi biển, vùng nuôi trồng thủy
sản trên biển, công nghiệp hỗ trợ phục vụ nuôi biển, hệ thống quan trắc
môi trường nuôi biển tự động...
Hình thành các đội tàu dịch vụ hậu cần
phục vụ nuôi biển theo hướng đa chức năng, từ vận chuyển giống, thức ăn
đến thu hoạch, sơ chế, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch.
Hình thành vùng nuôi biển xa bờ tại các tỉnh trọng điểm
Về phát triển nuôi biển gần bờ, ưu tiên
phát triển nuôi, trồng các đối tượng có thị trường tiêu thụ và lợi thế
cạnh trạnh: Nhóm cá biển; nhóm giáp xác; nhóm nhuyễn thể; nhóm rong, tảo
biển; sinh vật cảnh và các đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế khác.
Áp dụng phương thức nuôi công nghiệp, ưu
tiên phát triển các mô hình nuôi đa loài phù hợp với từng vùng sinh
thái, sức tải môi trường, gắn với bảo vệ, phát triển nguồn lợi và đồng
quản lý ở vùng bãi triều, đầm phá, rừng ngập mặn ven biển.
Với các tỉnh/thành phố từ Quảng Ninh đến
Ninh Bình, Đề án nêu rõ: Tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng
Ninh trở thành trung tâm nuôi biển, gắn với trung tâm nghề cá lớn; trọng
tâm phát triển nuôi biển ở các tỉnh gắn với bảo tồn biển và du lịch
quốc gia. Xây dụng các vùng sản xuất giống nhuyễn thể tập trung, đáp ứng
nhu cầu giống nhuyễn thể cho khu vực và cả nước.
Với các tỉnh/thành phố từ Thanh Hóa đến
Bình Thuận, phát triển nuôi biển gắn với chế biến thủy sản, dịch vụ hậu
cần và hạ tầng phát triển thủy sản. Phát triển nuôi biển ở các tỉnh có
điều kiện thuận lợi. Phát triển sản xuất giống cá biển, rong, tảo biển,
sinh vật cảnh tập trung. Xây dựng và vận hành mô hình đồng quản lý trong
quản lý và khai thác có hiệu quả, bền vững giống tôm hùm.
Còn với các tỉnh/thành phố từ Bà Rịa -
Vũng Tàu đến Kiên Giang, tập trung xây dựng phát triển nuôi biển ở các
địa phương có điều kiện; gắn kết hài hòa nuôi biển với dịch vụ, du lịch
sinh thái biển, dầu khí, điện gió, giữa phát triển nuôi biển và phát
triển công nghiệp chế biến.
Đối với phát triển công nghiệp nuôi biển
xa bờ, Đề án xác định sẽ phát triển mạnh nuôi các đối tượng có lợi thế
cạnh trạnh và có thị trường tiêu thụ lớn trên vùng biển xa bờ; nhóm cá
biển có giá trị kinh tế cao, nhóm nhuyễn thể và các đối tượng nuôi biển
có giá trị kinh tế khác.
Nuôi công nghiệp, hiện đại, quy mô lớn,
bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với
biến đổi khí hậu; sử dụng hệ thống lồng, bè có kết cấu và vật liệu phù
hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết (sóng to, gió
lớn, bão).
Hình thành các vùng nuôi biển xa bờ tại
các tỉnh trọng điểm như Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang
và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Minh Đức
Nguồn: Chinhphu.vn(4/10/2021)