Chiều 7/10, Bộ Giao thông vận tải tổ chức Hội nghị trực tuyến công
bố Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030,
tầm nhìn 2050. Đồng chí Nguyễn Văn Thể - Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ
Giao thông vận tải dự lễ công bố.
Tại điểm cầu Nghệ An, đồng chí Lê Hồng Vinh - Ủy viên Ban Thường
vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh chủ trì hội nghị.
Quang cảnh hội nghị tại điểm
cầu Nghệ An
Tại Quyết định số
1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ
2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo đó, mục tiêu đến năm 2030 phát triển hệ thống cảng
biển đồng bộ, hiện đại, dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường,
nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, góp phần đưa nước ta cơ bản trở
thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào
năm 2030 với một số chỉ tiêu cụ thể.
Về năng lực, đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa,
giao thương giữa các vùng, miền trong cả nước và hàng trung chuyển, quá cảnh
cho các nước trong khu vực cũng như nhu cầu vận tải hành khách nội địa và quốc
tế. Hệ thống cảng biển đáp ứng thông qua lượng hàng hóa từ 1.140 triệu tấn đến
1.423 triệu tấn (trong đó hàng container từ 38 đến 47 triệu TEU); hành khách từ
10,1 triệu lượt đến 10,3 triệu lượt khách.
Về kết cấu hạ tầng, ưu tiên phát triển các khu bến cảng
cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng), Cái Mép (Bà Rịa-Vũng Tàu). Nghiên cứu
cơ chế chính sách phù hợp phát triển từng bước cảng trung chuyển quốc tế tại
Vân Phong (Khánh Hòa) để khai thác tiềm năng về điều kiện tự nhiên và vị trí
địa lý. Quy hoạch định hướng phát triển bến cảng Trần Đề (Sóc Trăng) phục vụ
Đồng bằng sông Cửu Long để có thể triển khai đầu tư khi có đủ điều kiện; các
cảng biển quy mô lớn phục vụ phát triển kinh tế -xã hội của cả nước hoặc liên
vùng; các bến cảng khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch;
các bến cảng quy mô lớn phục vụ các khu kinh tế, khu công nghiệp; các bến cảng
tại các huyện đảo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng - an
ninh và chủ quyền biển đảo.
Quyết định nêu rõ, Hệ thống cảng biển Việt Nam gồm 5
nhóm: Nhóm 1 gồm 5 cảng biển: Cảng biển Hải Phòng, cảng biển Quảng Ninh, cảng
biển Thái Bình, cảng biển Nam Định và cảng biển Ninh Bình.
Nhóm 2 gồm 6 cảng biển: Cảng biển Thanh Hóa, cảng biển
Nghệ An, cảng biển Hà Tĩnh, cảng biển Quảng Bình, cảng biển Quảng Trị và cảng
biển Thừa Thiên Huế.
Nhóm 3 gồm 8 cảng biển: Cảng biển Đà Nẵng (gồm khu vực
huyện đảo Hoàng Sa), cảng biển Quảng Nam, cảng biển Quảng Ngãi, cảng biển Bình
Định, cảng biển Phú Yên, cảng biển Khánh Hòa (gồm khu vực huyện đảo Trường Sa),
cảng biển Ninh Thuận và cảng biển Bình Thuận.
Nhóm 4 gồm 5 cảng biển: Cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh,
cảng biển Đồng Nai, cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, cảng biển Bình Dương và cảng
biển Long An.
Nhóm 5 gồm 12 cảng biển: Cảng biển Cần Thơ, cảng biển
Đồng Tháp, cảng biển Tiền Giang, cảng biển Vĩnh Long, cảng biển Bến Tre, cảng
biển An Giang, cảng biển Hậu Giang, cảng biển Sóc Trăng, cảng biển Trà Vinh,
cảng biển Cà Mau, cảng biển Bạc Liêu và cảng biển Kiên Giang.
Theo quy mô, chức năng, hệ thống cảng biển Việt Nam gồm: Cảng
biển đặc biệt (2 cảng biển): Cảng biển Hải Phòng và cảng biển Bà Rịa - Vũng
Tàu. Cảng biển loại I (15 cảng biển): Cảng biển Quảng Ninh, cảng biển Thanh
Hóa, cảng biển Nghệ An, cảng biển Hà Tĩnh, cảng biển Thừa Thiên Huế, cảng biển
Đà Nẵng, cảng biển Quảng Nam, cảng biển Quảng Ngãi, cảng biển Bình Định, cảng
biển Khánh Hòa, cảng biển Thành phố Hồ Chí Minh, cảng biển Đồng Nai, cảng biển
Cần Thơ, cảng biển Long An, cảng biển Trà Vinh; trong đó, các cảng biển Thanh
Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa quy hoạch tiềm năng thành cảng biển đặc biệt.
Cảng biển loại II (6 cảng biển): Cảng biển Quảng Bình,
cảng biển Quảng Trị, cảng biển Ninh Thuận, cảng biển Bình Thuận, cảng biển Hậu
Giang, cảng biển Đồng Tháp.
Cảng biển loại III (13 cảng biển): Cảng biển Thái Bình,
cảng biển Nam Định, cảng biển Ninh Bình, cảng biển Phú Yên, cảng biển Bình
Dương, cảng biển Vĩnh Long, cảng biển Tiền Giang, cảng biển Bến Tre, cảng biển
Sóc Trăng, cảng biển An Giang, cảng biển Kiên Giang, cảng biển Bạc Liêu, cảng
biển Cà Mau; trong đó, Cảng biển Sóc Trăng quy hoạch tiềm năng thành cảng biển
đặc biệt.
Về định hướng hạ tầng giao thông kết nối, phát triển các
tuyến đường sắt kết nối với cảng biển loại đặc biệt và cảng biển loại I trên
hành lang Bắc - Nam; hình thành các bến cho phương tiện thủy nội địa trong vùng
nước cảng biển; hệ thống đường bộ cao tốc kết nối với các cảng biển loại đặc
biệt, hệ thống quốc lộ, đường địa phương kết nối trực tiếp đến hệ thống cảng
biển.
Phát triển cảng cạn tại các khu vực kinh tế, hành lang
kinh tế, ưu tiên quy hoạch các vị trí có kết nối thuận lợi bằng vận tải đường
thủy nội địa, vận tải sông pha biển, đường bộ cao tốc, đường sắt đến các cảng
biển quan trọng trong các nhóm cảng biển.
Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 khoảng
313.000 tỷ đồng (chỉ bao gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa),
được huy động chủ yếu từ nguồn ngoài ngân sách, vốn doanh nghiệp và các nguồn
vốn hợp pháp khác. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước tập trung cho hạ tầng hàng hải
công cộng; khu vực trọng điểm, tạo sức lan tỏa và thu hút đầu tư.
Phát biểu tại hội nghị, đồng chí Nguyễn Văn Thể - Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải nhấn mạnh, hệ thống cảng biển có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, khu vực và
quốc gia.
Để quy hoạch tổng thể phát
triển hệ thống cảng biển phát triển đạt mục tiêu đề ra, Bộ trưởng Bộ Giao thông
vận tải yêu cầu các cơ quan chuyên môn của Bộ Giao thông vận tải phối hợp với
các bộ, ngành tham mưu Chính phủ các cơ chế, chính sách về lĩnh vực hàng hải
nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển, góp phần thúc đẩy
phát triển vận tải biển, dịch vụ hàng hải. Nghiên cứu, đề xuất các mô hình quản
lý cảng biển phù hợp để nâng cao hiệu quả quản lý, đầu tư khai thác cảng biển,
cụm cảng biển…
Huy động đa dạng các nguồn lực trong và ngoài
nước tham gia đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng cảng biển theo quy hoạch và thể
chế hóa các giải pháp về phân cấp, phân quyền huy động nguồn lực. Đẩy mạnh khoa
học công nghệ, kỹ thuật hiện đại, ứng dụng công nghệ số và chuyển đổi số trong
xây dựng, quản lý, khai thác hệ thống cảng biển phù hợp với xu hướng cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, đáp ứng các tiêu chí cảng xanh. Đào tạo, thu hút
nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong công tác quản lý, khai thác hạ
tầng cảng biển…
UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về giao thông hàng hải theo quy
định của pháp luật có liên quan trong phạm vi địa phương; quản lý chặt chẽ quỹ
đất phục vụ triển khai quy hoạch. Rà soát, xây dựng, điều chỉnh các quy hoạch,
các dự án trên địa bàn bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với quy hoạch đã được
phê duyệt.
Cảng biển Nghệ An gồm các khu bến:
- Khu bến Nam Cửa Lò gồm vùng đất và vùng nước khu vực
hai bên tuyến luồng Nam Cửa Lò (từ hạ lưu đập Bara Nghi Quang ra đến mũi
Rồng). Chức năng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An và liên
vùng, tiếp chuyển một phần hàng quá cảnh cho Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và
Đông Bắc Thái Lan; có bến tổng hợp, hàng rời container, hàng lỏng/khí, bến
cảng khách du thuyền gắn với du lịch Cửa Lò. Cỡ tàu trọng tải đến 30.000 tấn.
- Khu bến Bắc Cửa Lò gồm vùng đất và vùng nước khu vực
phía Bắc Cửa Lò (từ mũi Gà đến khu vực mũi Rồng). Chức năng phục vụ các cơ sở
công nghiệp liền kề, Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An và vùng lân cận; phát triển
theo nhu cầu và năng lực nhà đầu tư; có bến tổng hợp, container, hàng rời,
hàng lỏng/khí, kết hợp bến khác quốc tế khi có nhu cầu. Cỡ tàu hàng rời có
trọng tải đến 100.000 tấn; tàu hàng lỏng/khí có trọng tải đến 50.000 tấn; tàu
tổng hợp, container trọng tải đến 50.000 tấn hoặc lớn hơn khi đủ điều kiện;
tàu khách quốc tế đến 225.000 GT.
- Khu bến Đông Hồi gồm vùng đất và vùng nước khu vực từ
mũi Đông Hồi đến phía Bắc mũi Đầu Rồng. Chức năng phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội liên vùng; có bến tổng hợp, hàng rời, hàng lỏng/khí. Phát triển với
lộ trình thích hợp, kết hợp với khu bến Nghi Sơn để hình thành cụm cảng Nghi
Sơn – Đông Hồi. Cỡ tàu trọng tải 50.000 -70.000 tấn.
- Khu bến Bến Thủy, Cửa Hội là vùng đất và vùng nước
khu vực Bến Thủy, Cửa Hội trên sông Lam. Chức năng là bến vệ tinh, địa
phương. Cỡ tàu trọng tải đến 2.000 tấn.
- Các bến phao, khu neo đậu chuyển tải gồm bến phao
xăng dầu Nghi Hương; khu neo đậu chuyển tải tại Đông Hồi, Cửa Lò; khu neo đậu
tránh, trú bão tại khu vực Cửa Hội.
|
Phương
Thúy