“Di
sản của Hoài Thanh là một khối đồ sộ những ký thác và tin tưởng, thật
đáng tự hào. Tài sản của Hoài Thanh đã đi vào lịch sử. Một tài sản lấp
lánh biết bao vẻ đẹp của một nhà văn hóa và nhà phê bình văn học tiêu
biểu...”. Đó là nhận định hết sức xác đáng của nhà thơ Hữu Thỉnh khi
viết về Hoài Thanh - nhà phê bình văn học lớn và tài hoa bậc nhất của
nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Nhà phê bình vănhọc Hoài Thanh và bìa một tác phẩm của ông
Hoài
Thanh tên thật là Nguyễn Đức Nguyên, sinh ngày 15-7-1909, trong một gia
đình có truyền thống Nho học ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An - vùng đất
nổi tiếng với truyền thống hiếu học và các phong trào yêu nước. Ngay từ
hồi học trung học, Hoài Thanh đã tích cực tham gia các hoạt động yêu
nước. Năm 1927, ông gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1930, ông bị
bắt, bị kết án treo, rồi bị trục xuất khỏi Hà Nội và giải về quê. Năm
1931, ông vào Huế sắp chữ cho Nhà in Đắc Lập đồng thời vừa dạy học, viết
văn, làm báo.
Năm
1945, Hoài Thanh tham gia Tổng khởi nghĩa của Việt Minh cướp chính
quyền ở Huế rồi sau đó giữ các chức vụ: Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc ở
Huế; ủy viên Ban Thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam (1950); Trưởng tiểu ban
Văn nghệ, Ban Tuyên huấn Trung ương (1950-1956); giảng dạy tại Khoa
Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội (1958). Từ năm 1958-1969, ông là đại biểu
Quốc hội khóa II, Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt
Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa I, II. Từ năm 1959-1969, ông
giữ chức Phó Viện trưởng Viện Văn học kiêm Thư ký tòa soạn Tạp chí
Nghiên cứu văn học (sau là Tạp chí Văn học). Từ năm 1969-1975, ông giữ
chức Chủ nhiệm Báo Văn nghệ. Hoài Thanh mất ngày 14-3-1982 tại Hà Nội,
thọ 73 tuổi.
Trong
suốt hơn 50 năm cầm bút, Hoài Thanh đã để lại một gia tài tác phẩm đồ
sộ và có những đóng góp lớn cho nền phê bình văn học nói riêng và lịch
sử văn học dân tộc nói chung. Các tác phẩm gồm: Văn chương và hành động
(1936), Thi nhân Việt Nam (viết chung với Hoài Chân, 1941), Có một nền
văn hóa Việt Nam (1946), Quyền sống con người trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du (1949), Nhân văn Việt Nam (1949), Xây dựng văn hóa nhân dân
(1950), Nói chuyện thơ kháng chiến (1951), Nam Bộ mến yêu (1955), Quê
hương và thời niên thiếu của Bác (viết chung với Thanh Tịnh, 1960), Phê
bình và tiểu luận (3 tập, 1960-1971), Phan Bội Châu (1978), Chuyện thơ
(1978), Tuyển tập Hoài Thanh (2 tập, 1982-1983), Di bút và di cảo
(1993), Hoài Thanh toàn tập (4 tập, 1998)…
Một đời đi tìm cái hay, cái đẹp
Hoài
Thanh tổng kết về hành trình làm phê bình của mình trong sự ngậm ngùi
và không kém phần kiêu hãnh: Một đời làm văn tôi chỉ tìm cái hay, cái
đẹp để bình. Đó là điều ham muốn của tôi. Vậy mà tôi đã vấp phải khối
chuyện phiền: kẻ yêu, người ghét. Thậm chí tôi còn bị vu cáo, bị nói
oan. Tôi biết vậy nhưng không thể sống khác, viết khác cái tạng của
mình. Điều mà tôi có thể hoàn toàn yên tâm và tự hào trước lúc đi xa là
tôi đã sống và viết hoàn toàn trung thực1.Ông đến với phê
bình bằng công trình Văn chương và hành động xuất bản năm 1936 nhưng bị
thực dân Pháp tịch thu vì trong đó thể hiện những tư tưởng yêu nước và
chống đối với chính quyền Pháp. Sau khi lên án hiện thực xã hội thực dân
nửa phong kiến “ối a ba phèng” (theo cách nói của nhà văn Nguyễn Tuân),
cuối tác phẩm là một bày tỏ đanh thép: “Là một người Việt Nam ở thời
bây giờ trên vai ta mang nặng những trách nhiệm không thể từ chối
được... Trước tình hình như vậy, vòng tay đứng nhìn là một tội ác...
Chúng tôi nhận rằng nhà văn cũng phải hành động như mọi người: hành động
bằng việc làm và hành động bằng ngòi bút”.
Những
năm 1935-1936, Hoài Thanh nổi lên trong cuộc tranh luận đầy ấn tượng
giữa một bên là “Nghệ thuật vị nghệ thuật” do ông làm chủ soái với bên
kia là “Nghệ thuật vị nhân sinh” do Hải Triều đứng đầu. Khi tuyên bố
“Văn chương trước hết là văn chương” và “trong văn chương cái quan trọng
nhất là một chữ Tài”, ông đã ít nhiều thể hiện tuyên ngôn của mình
trong phê bình văn chương. Nhưng tất cả tinh hoa phê bình của ông nằm
trong công trình viết chung với em trai mình Hoài Chân: Thi nhân Việt
Nam (1932-1941). Cuốn phê bình vào hàng kinh điển này đã khái quát nên
diện mạo khá đầy đủ về một phong trào thơ ca lớn của văn học Việt Nam
thế kỷ XX: Phong trào thơ mới (1932-1945). Giá trị của Thi nhân Việt Nam
được khẳng định bởi nghệ thuật viết phê bình của một giọng văn tài hoa,
cuốn hút mang âm hưởng tâm tình, âm điệu nhẹ nhàng, câu từ duyên dáng,
đôi khi dí dỏm nhưng toát lên những nhận định hết sức tinh tế và sắc sảo
về các nhà thơ mới. Dẫu vẫn còn một số hạn chế lịch sử nhất định nhưng
Thi nhân Việt Nam là một công trình biên khảo có giá trị cao về nghiên
cứu, phê bình và tuyển thơ. GS. Đặng Thai Mai khi đánh giá về công trình
này cho rằng: “Hoài Thanh (và Hoài Chân) cũng đã đọc hộ chúng ta trong
ngoài một vạn bài thơ và bao nhiêu bài văn nữa; dầu sao thì qua gần 400
trang sách ấy chúng ta cũng đã bắt gặp khá nhiều ấn tượng, khá nhiều suy
nghĩ về nghệ thuật thơ mới. Riêng về phần tôi sau khi đọc tác phẩm và
đặc biệt là sau khi xem lại bài tựa cuốn sách, tuy tôi không đồng ý với
hai tác giả về một số điểm nhưng quả tình tôi vẫn để ý đến nhiều đoạn
văn thật sự hấp dẫn. Và một điều khá lạ, là ngay từ hồi ấy cảm tưởng của
tôi là tập sách trong khi có vẻ như tán dương cuộc thắng lợi của thơ
mới cũng đã cho thấy một ít dấu hiệu về sự kết thúc một thời kỳ khi cái
mới đang trở thành cái cũ”. Có thể nói, tất cả những gì tinh hoa nhất
trong sự nghiệp phê bình của Hoài Thanh trước Cách mạng Tháng Tám đều
tập trung ở Thi nhân Việt Nam. Từ công trình này đã gợi mở cho nhiều
công trình khoa học lớn có giá trị về phong trào thơ mới nói chung và
các thi sĩ thơ mới nói riêng sau này.
Gắn bó với bước trưởng thành của văn học cách mạng
Sau
Cách mạng Tháng Tám, Hoài Thanh gần như nhập cuộc ngay với đời sống văn
học trong thời kỳ mới dù phải gánh vác một khối công việc bề bộn, với
nhiều chức vụ quan trọng nhưng ông luôn bao quát sự vận động của hơn nửa
thế kỷ văn học, với những biến động to lớn trong đó ông đã sống và viết
một cách trung thực, nhiệt thành. Cuốn Nói chuyện thơ kháng chiến
(1951) là tập hợp những bài nói chuyện về thơ kháng chiến chống Pháp của
Hoài Thanh. Trong cuốn sách, Hoài Thanh đã phác họa chân dung những con
người mới, nhân vật công nông binh, đồng thời ông chọn lọc và giới
thiệu những bài thơ kháng chiến tiêu biểu: Viếng bạn (Hoàng Lộc), Nhớ
(Hồng Nguyên), Bài ca vỡ đất (Hoàng Trung Thông), Người dân quân xã
(Vĩnh Mai), Lượm, Lên Tây Bắc (Tố Hữu)… Ông cũng đã nhận ra và khẳng
định “nội dung của thơ ca kháng chiến là tình yêu nước, và không có gì
ngoài tình yêu nước, không có gì ngoài những phương diện của tình yêu
nước”, đồng thời Hoài Thanh cũng nhiệt tình ủng hộ khuynh hướng đại
chúng trong hình thức biểu hiện. Đây là một công trình có tính tiên
phong nghiên cứu và phê bình thơ kháng chiến ngay sau Cách mạng Tháng
Tám, nó có tính chất vừa như công trình tổng kết, đánh giá vừa mang tính
gợi mở, định hướng tới khuynh hướng sáng tác của các nhà thơ giai đoạn
này.
Suốt
chiều dài của hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hoài Thanh
đều đi theo bước đường phát triển và trưởng thành của nền văn học cách
mạng. Đặc biệt, ông luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến thơ Hồ Chí Minh
và Tố Hữu - hai nhà thơ cách mạng tiên phong và có sức ảnh hưởng lớn đối
với nền văn học cách mạng Việt Nam. Hoài Thanh luôn có ý thức “học tập
Bác qua thơ Bác” để đi sâu khám phá vẻ đẹp con người và phẩm chất đạo
đức Hồ Chí Minh. Với Tố Hữu, ông cũng thường xuyên viết các bài phê bình
theo từng chặng đường thơ Tố Hữu thời kỳ sau cách mạng từ tập Việt Bắc
đến Gió lộng, Ra trận rồi cả Máu và hoa và đưa ra những nhận định hết
sức xác đáng và tinh tế về thơ Tố Hữu. Chẳng hạn ở tác phẩm Nước non
ngàn dặm, Hoài Thanh đã nhận ra “giọng tâm tình” là giọng điệu chủ đạo
và làm nên sức hấp dẫn của tác phẩm. Ông viết: “Bài thơ dài trên ba trăm
câu mà gần như không một lần lỡ nhịp ngang cung. Bài thơ ngọt lịm, đúng
là một tiếng ru. Một tiếng ru day dứt không thôi. Bởi ru đây không phải
là ru để ngủ, để quên, mà để đừng quên”. Ngoài ra, Hoài Thanh còn viết
về các cây bút trẻ mới xuất hiện trong thời đại mới như Anh Đức, Giang
Nam, Thanh Hải, Lê Anh Xuân, Nguyễn Duy, Lưu Quang Vũ... bằng sự nâng
niu, trân trọng và với “con mắt xanh” của nhà phê bình tài hoa bậc nhất,
ông đã phát hiện và làm cho chất kim cương trong thơ họ tỏa sáng lấp
lánh. Một đời cầm bút và sáng tạo, Hoài Thanh đã để lại trong văn chương
dấu ấn thật khó phai mờ. Dấu ấn độc đáo đó thể hiện trong quan niệm
nghệ thuật, phương pháp phê bình ấn tượng và ở giai đoạn nào trong sự
nghiệp, Hoài Thanh cũng sống hết mình cho văn chương nghệ thuật và giúp
cho nhiều cây bút trưởng thành.
Hơn
trăm năm đã trôi qua nhưng những di sản phê bình của Hoài Thanh vẫn còn
mãi với thời gian. Những thế hệ các nhà phê bình sau ông đã và đang
phát huy cũng như tiếp bước con đường mà ông đã để lại. Đây đó vẫn còn
những tranh cãi, dù đồng ý hay không đồng ý với quan điểm phê bình của
Hoài Thanh nhưng các nhà nghiên cứu cùng thời và sau này đều thống nhất
cho rằng ông
là nhà phê bình lớn và tài hoa bậc nhất của văn học hiện đại Việt Nam
thế kỷ XX. Vì những đóng góp cho nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, năm
2000, Hoài Thanh đã được Đảng và Nhà nước trao Giải thưởng Hồ Chí Minh
về văn học nghệ thuật.
Nguyễn Hương Chi
|