Đồng
chí Trần Văn Cung sinh ngày 5/5/1909 tại làng Kim Khê Trung, tổng Kim
Nguyên(nay là xã Nghi Hoa), huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Thân sinh là tú tài
Trần Văn Năng. Cả nhà đều tham gia cách mạng chống thực dân Pháp. Anh
cả đồng chí là Trần Văn Tăng tham gia Đảng Tân Việt bị bắt và bị kết án 2
năm tù và 2 năm quản thúc, còn em trai là Trần Văn Quang(nay là Thượng
tướng) và Trần Văn Bành cũng bị bắt giam tại nhà tù Buôn Ma Thuột từ năm
1938 đến năm 1945.
Thuở nhỏ Trần Văn Cung học tại trường làng Kim Khê. Tháng 8/1918 vào học
lớp tư trường Pháp -Việt (trường tiểu học Cao Xuân Dục, Vinh). Năm
1922, anh trai là Trần Văn Tăng, giáo viên trường Cao Xuân Dục phải
chuyển đi dạy học tại trường Pháp Việt Yên Thành nên Trần Văn Cung theo
anh ra học lớp nhất tại Yên Thành. Tháng 6/1923 Trần Văn Cung đậu primes
(tốt nghiệp tiểu học hiện nay). Đến tháng 5/1925 Trần Văn Cung thi đậu
vào trường Quốc học Vinh(Collège Vinh). Thời gian này Hội Phục Việt của
những trí thức yêu nước được thành lập tại núi Con Mèo(Bến Thuỷ). Hội đã
phát triển khắp cả hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Lê Huân, cựu tù chính
trị là một trong những người sáng lập ra Hội Phục Việt, phụ trách miền
Bắc Trung Kỳ có người bà con là Lê Phước làm đốc học các trường ở Vinh,
nên ông dễ dàng đi lại và gặp tại nhà Lê Phước một số thầy giáo tiểu học
có tư tưởng tiến bộ. Trần Văn Tăng, anh trai Trần Văn Cung đã sớm gia
nhập Hội này.
Vào những năm 1925-1926, văn thơ yêu nước của Phan Bội Châu và các sỹ
phu yêu nước lớp trước được các hội viên của Hội Phục Việt dùng để tuyên
truyền và giáo dục tinh thần yêu nước cho quần chúng, tạo điều kiện
thuận lợi cho quần chúng tiếp cận với trào lưu tư tưởng mới. Vào học tại
trường Quốc học Vinh, Trần Văn Cung sớn trở tàhnh hội viên Hội Phục
Việt. Lúc này ở Quảng Châu(Trung Quốc), tổ chức “Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí Hội” - gọi tắt là Hội Thanh niên được Nguyễn Ái Quốc
thành lập trên cơ sơ rnhững hạt nhân nòng cốt của tổ chức “Tâm Tâm xã”.
Hội Thanh niên có tôn chỉ mục đích rõ ràng, có điều lệ chặt chẽ và
phương thức hoạt động gần như một tổ chức Đảng. đồng chí Nguyễn Ái Quốc
nhận trách nhiệm trước Quốc tế cộng sản về việc xây dựng tổ chức Đảng ở
Việt Nam. Đồng chí cho người về nước tuyển lựa những thanh niên yêu nước
sang Quảng Châu đào tạo để sau này thành những người cách mạng. Tháng
6/1926, Lê Duy Điếm được Hội Phục Việt cử sang Quảng Châu để làm việc
với tổ chức Thanh niên. Sau khi được tham gia khoá huấn luyện chính trị
ba tháng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và gia nhập tổ chức “Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí hội”, Lê Duy Điếm nhận nhiệm vụ về nước đưa
thanh niên yêu nước ở Nghệ Tĩnh sang Quảng Châu.
Thág 11/1926, Hội Phục Việt tiếp tục cử Trần Văn Cung sang Quảng Châu
cùng Lê Duy Điếm và Lê Tư(tức Nguyễn Văn Cẩm, người Hà Tĩnh). Các anh
qua Xiêm vào Trại Cày của Đặng Thúc Hứa và từ đó sang Quảng Châu. Đến
Quảng Châu, Trần văn Cung cùng đồng chí Nguyễn Lương Bằng dự lớp huấn
luyện do Nguyễn Ái Quốc mở 4 tháng. Được đồng chí Ngyễn Ái Quốc trực
tiếp giảng dạy, Trần Văn Cung thấy rõ Hội Thanh niên là một tổ chức tiến
bộ và anh gia nhập Hội; đồng thời anh nhận nhiệm vụ về nước tuyên
truyền cho Hội. Về quê, anh thường đi từ địa phương này qua địa phương
khác để tuyên truyền giác ngộ quần chúng yêu nước. Bọn quan lại, hào lý
các địa phương luôn luôn để ý theo dõi anh. Theo báo cáo của Tổng đốc An
Tĩnh Phạm Liễu gửi công sứ Pháp tại Vinh ngày 29/9/1927: “Trần Văn Cung
thường đi lại tới hạt phủ Anh Sơn, các làng Mỵ Yên, Thuỵ Anh, Phương
Tích...thuộc tổng Vân Trình, Nghi Lộc”(Hồ sơ Trần Văn Cung, tiếng Pháp,
lưu tại Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh).
Để đi đến thống nhất trong tổ chức Thanh
niên và Hội Hưng Nam(lúc này Hội Phục Việt đã đổi tên), Trần Văn Cung
cùng một số đồng chí ở Hội Phục Việt sau khi được kết nạp vào Hội Thanh
niên ở Quảng Châu trở về nước đã tổ chức một cuộc họp tại bãi biển Cửa
Hội. Tại cuộc họp, các đồng chí Thanh niên mong muốn tổ chức Hội Hưng
Nam gia nhập với Hội Thanh niên và lấy tôn chỉ của Hội Thanh niên; Nhưng
người đứng đầu của Hội Hưng Nam lúc này là Trần Mộng Bạch(tức Trần Đình
Thanh) không tán thành. Trần Đình Thanh muốn giữ lấy “Hưng Nam” vì đó
là công lao của ông và chương trình của hội này có tính chất ôn hoà.
Việc không thành, nhưng Hội Hưng Nam từ đây đã trở thành nơi cung cấp
lực lượng thanh niên tiến bộ cho Hội Thanh niên. Chi bộ Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí Hội ở Vinh được thành lập gồm:
Vương Thúc Oánh , Bí thư
Nguyễn Sỹ Sách
Trần Văn Cung(Tức Quốc Anh)
Phan Ngọc Quảng
Nguyễn Kim Cương
Nguyễn Ngọc Tuyết
Hè năm 1927, Trần Văn Cung được chi bộThanh niên ở Vinh cử sang Quảng
Châu công tác. Đúng thời gian này, ngày 12/4/1927, Tưởng Giới Thạch đã
phản bội lại đường lối “Thân Nga, dung cộng, phù trợ công nông” và “Hợp
tác với phong trào cộng sản” của Tôn Trung Sơn và làm đảo chính ở Thượng
Hải. Các cơ sở Đảng cộng sản Trung Quốc bị khủng bố. Ngày 13/4/1927, Lý
Tế Thâm (tay chân của Tưởng, tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đông) làm đảo chính
ở Quảng Châu. Trần Văn Cung bị Lý Tế Thâm bắt giam. Tổng bộ Thanh niên ở
Quảng Châu ra báo phản đối và chỉ thị cho các Tỉnh bộ Thanh niên trong
nước tổ chức rải truyền đơn phản đối chính quyền Quảng Đông(Trung Quốc)
bắt giam Trần Văn Cung. Chính quyền Quảng Đông phải thả anh ra sau ba
tháng giam giữ anh trong nhà lao tỉnh.
Ngày 11/12/1927, khởi nghĩa Quảng Châu nổ ra, Trần Văn Cung cùng các hội viên Thanh niên tham gia cuộc khởi nghĩa.
Hè năm 1928, trở về nước, anh lập gia đình. Tháng 8/1928 hai vợ chồng
anh ra Hà Nội để buôn bán. đánh tiếng là buôn bán, nhưng thực chất là
hai người chuyển ra hoạt động tại Hà Nội. Trần Văn Cung gia nhập chi hội
Thanh niên ở Bắc Kỳ.
Tổ chức Thanh niên đã thuê căn nhà số 5 D Hàm Long(Hà Nội) làm trụ sở
hoạt động bí mật và giao cho hai vợ chồng đồng chí Trần Văn Cung và Trần
Thị Liên trông nom cơ quan. Lúc mới đến đây, gia sản hai vợ chồng đồng
chí Trần Văn Cung không có gì ngoài số đồ dùng cần thiết do tổ chức sắm
cho. Đồng chí Nguyễn Phong Sắc(lúc này là Bí thư tỉnh bộ Thanh niên Hà
Nội) cho chở thêm bàn ghế ở nhà đến và sắm sửa thêm nồi niêu để các đồng
chí ở cơ quan có chỗ nấu ăn. Ngoài hai vợ chồng đồng chí Trần Văn Cung,
đi lại làm việc cơ quan này còn có: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn
Phong Sắc, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu... Các đồng chí nhiều lần hội họp
và thường tập trung thảo luận về vấn đề: “Cần thiết phải tổ chức ở Việt
Nam một Đảng cộng sản gồm những người tiên tiến giác ngộ quyền lợi giai
cấp công nhân theo chủ nghĩa Mác- Lê nin để lãnh đạo cách mạng”.
Ngày 28/9/1928 ở phố Huế(Hà Nội), tổ chức Thanh niên cách mạng BắcKỳ họp
có: Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Phong Sắc, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh,
Trần Văn Cung và đại biểu 5 tỉnh bộ phía Bắc. Tất cả 20 người. Tối hôm
đầu tiên đang bàn về chương trình nghị sự thì có bọn mật thám rình mò.
Ngày hôm sau cuộc họp chuyển về nhà Ngô Gia Tự ở Từ Sơn(Bắc Ninh), lấy
lý do là mừng anh đỗ tú tài. Qua báo cáo của đại biểu 5 Tỉnh bộ, hội
nghị đã nhận định từ cuối năm 1926 trở đi, phong trào Thanh niên ở Hà
Nội phát triển ra các tỉnh. Nhưng ở các nơi như hầm lò, nhà máy, đồn
điền ..chi bộ Thanh niên còn quá ít. Nam Định mới có hai chi bộ ở nhà
máy Sợi; Hải Phòng, Cửa Cấm, Xi măng có 3 chi bộ; mỏ than Quảng Ninh
chưa lập được chi bộ; thành phần công nhân trong chi bộ còn quá ít...Tại
Hội nghị đã bầu Ban chấp hành Kỳ bộ Thanh niên và đồng chí Trần Văn
Cung được bầu làm Bí thư. Hội nghị chủ trương “vô sản hoá”, nhằm đẩy
mạnh việc tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin trong công nhân và rèn
luyện cán bộ. Các đồng chí được cử về xây dựng cơ sở như ở Hải Phòng có
Nguyễn Đức Cảnh, Mai Thị Vũ Trang về Nam Định... Thời gian này phong
trào đấu tranh lên cao trong cả nước đòi hỏi phải có một chính đảng thật
sự của giai cấp công nhân.
Tháng 3/1929, Chi bộ Cộng sản đầu tiên được thành lập tại nhà số 5 D Hàm
Long(Hà Nội) và đồng chí Trần Văn Cung được cử làm Bí thư. Chi bộ gồm
các đồng chí: Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Đỗ Ngọc Du,
Trịnh Đình Cửu, Dương Hạc Đính, Kim Tôn(tức Nguyễn Tuân). Chi bộ đặt
cho mình nhiệm vụ nòng cốt trong việc thành lập Đảng cộng sản, phát
triển tổ chức Đảng ở các địa phương, vận động những người tích cực trong
Hội Thanh niên tán thành chủ trương thành lập Đảng cộng sản.
Dưới sự lãnh đạo của chi bộ cộng sản, Đại hội kỳ bộ Thanh niên ở Bắc Kỳ
họp ngày 28/3/1929 tại đồn điền Moren(Sơn Tây) tán thành chủ trương
thành lập Đảng cộng sản. đồng chí Trần Văn Cung là Bí thư Kỳ bộ được Đại
hội giao trách nhiệm cùng đoàn đại biểu gồm: Ngô Gia Tự, Dương Hạc
Đính, Nguyễn Tuân đi dự Đại hội Thanh niên tại Hương Cảng. Năm 1928,
Tổng bộ Thanh niên đã chuyển cơ quan sang Hương Cảng sau khởi nghĩa
Quảng Châu thất bại. Trước khi đi Hương Cảng, Trần Văn Cung vào Vinh để
tranh thủ sự đồng tình của các địa biểu Trung Kỳ, nhưng đoàn đại biểu
Trung Kỳ đã lên đường sang Hương Cảng rồi. Tại Đại hội Thanh niên ở
Hương Cảng tháng 5/1929, Trần Văn Cung trưởng đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ
phân tích những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi cho việc
thành lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo phong trào cách mạng. Nhưng Lâm
Đức Thụ, một phần tử cơ hội đã nhân danh Chủ tịch Đại hội quyết định
không bàn về tổ chức cộng sản ở đây. Đoàn đại biểu Thanh niên Bắc Kỳ
tuyên bố ly khai Đại hội và bỏ ra về. Mặc dù Hội nghị không thành nhưng ở
Hương Cảng, Trần Văn Cung đã thảo luận với đồng chí Lê Hồng Sơn về việc
thành lập Đảng cộng sản. Lê Hồng Sơn cũng tán thành việc thành lập Đảng
cộng sản nhưng không phải lúc này vì chưa đủ điều kiện.
Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Tuân(trừ Dương Hạc Đính ở lại Hương
Cảng) về nước trên chuyến tàu Nhật Bản ở Cửu Long(một thị trấn của Hương
Cảng). Do không có tiền mua vé nên khi ba người về đến Hải Phòng phải
để một người ở lại trên tàu làm con tin; đồng chí Trần Văn Cung xuống
tàu tìm gặp Nguyễn Đức Cảnh nhờ giúp đỡ. Đồng chí Nguyễn Đức Cảnh vận
động được Cô Vinh(một nữ hộ sinh, quần chúng cơ sở của cách mạng) giúp
đỡ. Cô Vinh đã bán toàn bộ đồ nữ trang của mình được 100 đồng bạc Đông
Dương và đưa hết cho Nguyễn Đức Cảnh để giúp đoàn trang trải nợ vé tàu.
Về nước, ngày 1/6/1929 đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã ra công bố Tuyên ngôn
giải thích lý cho hội viên của mình lý do bỏ Đại hội ra về và kêu gọi:
“Phải tổ chức ngay Đảng cộng sản thì mới dẫn đạo cho vô sản giai cấp làm
cách mệnh được”(Các tổ chức tiền thân của Đảng. BNCLS Đảng TW xuất bản.
Hà Nội, 1978).
Ngày 17/6/1020, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên(Hà Nội), Đông Dương cộng
sản Đảng thành lập. Trong số những người sáng lập ra tổ chức này có các
đồng chí: Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu,
Trần Văn Cung ...Chính cương và Tuyên ngôn của Đảng được công bố. Tờ
báo “Búa Liềm”, cơ quan ngôn luận Trung ương của Đảng ra đời. Sau khi
thành lập, Ban chấp hành Trung ương Lâm thời đã cử đồng chí Trần Văn
Cung và Nguyễn Phong Sắc vào xây dựng cơ sở Đảng ở Trung Kỳ. Đồng chí
Trịnh Đình Cửu phụ trách tuyên huấn ở Bắc Kỳ; đồng chí Trần Tử Chinh,
Ngô Gia Tự phụ trách xây dựng cơ sở Đảng ở Nam Kỳ; Đỗ Ngọc Du phụ trách
giao thông liên lạc; Nguyễn Tuân(Kim Đôn) phụ trách Nông dân vận động.
Đồng chí Trần Văn Cung và Nguyễn Phong Sắc vào Nghệ An gặp đồng chí Võ
Mai(tức Quốc Hoa) thành lập Kỳ bộ Đông Dương cộng sản Đảng Trung Kỳ,
Nguyễn Phong Sắc làm Bí thư. Cơ quan lúc này đóng ở làng Vang gần nhà bố
vợ Trần Văn Cung là Trần Khắc Am. Gia đình ông Trần Khắc Am luôn tạo
điều kiện cho con gái và con rể hoạt động cách mạng được tốt. Ông Am có
người con trai là Trần Khắc Hồ, năm 1920-1926 là học sinh trường tiểu
học Cao Xuân Dục – Vinh sau đó tham gia hoạt động ở Khánh Hoà nên bị Toà
án Nam triều tỉnh Khánh Hoà kết án 9 năm tù khổ sai; vào tù anh tham
gia tuyên truyền trong nhà tù nên bị tăng án thêm 3 năm nữa và bị chuyển
giam tại Buôn Ma Thuột. Trụ sở của Xứ uỷ Trung Kỳ đóng ở đây rất thuận
lợi, làng xóm dân cư thưa thớt, cây cối rậm rạp và lại nằm ngoài rìa
thành phố Vinh nên ít người để ý. Được một thời gian, cơ quan Xứ uỷ dời
xuống cống Đệ Nhất, phố Cô Đầu(nay là khu vực bên trái Nhà văn hoá thiếu
nhi Việt Đức, thành phố Vinh).
Kỳ bộ Trung Kỳ đã xây dựng được các tổ chức cơ sở Đảng trong các huyện ở
Nghệ Tĩnh như: Vinh, Thanh Chương, Anh Sơn, Nam Đàn...Những hội viên ưu
tú của Hội Thanh niên có đủ tiêu chuẩn là đảng viên cộng sản thì được
chuyển sang Đông Dương cộng sản Đảng. Đường lối và khẩu hiệu của Đông
Dương cộng sản Đảng đã được quần chúng tiếp thu và hướng ứng mạnh trong
cả nước.
Đông Dương cộng sản Đảng tổ chức rải truyền đơn ở Nghệ An kêu gọi quần
chúng kỷ niệm ngày phản đối đế quốcchiến tranh(1/8/1929). Sau vụ rải
truyền đơn này, đồng chí Trần Văn Cung bị bắt và bị kết án tử hình cùng
đồng chí Ngô Thiêm, Vương Thúc Oánh và xử tử hình vắng mặt Nguyễn Ái
Quốc, Phan Tái, Lê Duy Điếm, Trần Phú( theo Bản án ngày 14/10/1929 của
Toà án Nam triều tỉnh Nghệ An). Đồng chí Trần Văn Cung bị bắt, Trung
ương cử đồng chí Nguyễn Đức Cảnh và đồng chí Mậu vào giúp Xứ uỷ Trung
Kỳ.
Sau khi Toà án Nam triều tỉnh Nghệ An xét xử lại đã chuyển án đồng chí
Trần Văn Cung từ tử hình xuống khổ sai chung thân và đày đi Guy am,
nhưng trước mắt đày đi Lao Bảo. Trong chuyến đi ngày 4/12/1929, tại ga
Vinh có 30 người tù chính trị trong đó có Trần Văn Cung, Nguyễn Sỹ Sách,
Nguyễn Ngọc Tuyết, Nguyễn Lợi, Vương Thúc Oánh...Khoảng 4 giờ sáng mùa
Đông, chỉ bận bộ quần áo màu xanh mỏng, 30 tù nhân chân tay bị xiềng
xích, lính áp giải lên tàu tại Ga Vinh để đi Quảng Trị. Các anh vừa lên
tàu thì cánh cửa khoang tàu đóng sập lại. Người nhà đi tiễn mang theo
quà bánh bọn lính cũng không cho cầm. Đến ga Quảng Trị, có ô tô chở đoàn
người lên Lao Bảo. Đoạn đường 83 km đi Lao Bảo theo đường số 9 thật là
heo hút, cheo leo. Xe đưa các anh men theo vách núi. Càng đi lên vùng
cao của huyện Hương Hoá, không khí càng lạnh buốt, thấp thoáng dưới chân
các dãy núi chỉ lác đác vài ngôi nhà người dân tộc Vân Kiều.
Năm 1896, thực dân Pháp đã chọn nơi rừng thiêng nước độc có địa thế hiểm
trở ở miền Tây Quảng Trị để xây dựng nhà tù ở nơi hiểm yếu để giam giữ
những người yêu nước vùng Trung Kỳ chống lại chinh phủ Pháp. Tại nhà tù
Lao Bảo, thời gian này bọn thực dân Pháp thực hiện chính sách giam giữ
tù nhân hết sức khắc nghiệt. Đây là nơi giáp với biên giới nước Lào, bọn
cai ngục hết sức tàn ác. Sau khi phong trào cách mạng Trung Kỳ phát
triển mạnh, các cuộc khủng bố bắt bớ diễn ra thường xuyên. Thực dân Pháp
đã cho xây dựng lại nhà tù Lao Bảo. Tường xung quanh được bao bằng các
tấm gỗ lớn bịt kín. Lúc này có hai dãy nhà lao A và B. Số tù chính trị
được đưa từ Nghệ An vào được chia ra ở lao A và B. Chúng phủ đầu tù
chính trị vừa mới đến bằng những trận đánh đập dã man. Ngay sau đó chúng
cho cạo trọc đầu, xiềng chân, gông cổ. Bọn chủ ngục bắt tù nhân đi lao
dịch, nếu ai đau ốm chậm chân thì bị chúng đánh đập. Về đến nhà lao,
không được nói gì cả, chân phải cho vào cùm gỗ. Trước khi đi ngủ chúng
bắt tù nhân ngậm thẻ: “không được nói chuyện”.
Trước tình hình đó, đồng chí Trần Văn Cung và Nguyễn Sỹ Sách đã bàn với
anh em tù chính trị đấu tranh bằng hình thức tuyệt thực không đi làm.
Đồng chí Trần Văn Cung soạn thảo 7 yêu sách:
Bỏ gông xiềng
Cho đọc sách báo
Trở về giam ở tỉnh nhà
Được gửi thư về nhà
Được mặc quần áo do người nhà gửi đến
Cải thiện ăn uống, không được cho ăn cá ươn thối
Làm việc nhẹ nhàng không được bắt làm công việc nặng.
Và phân công cụ thể như sau: đồng chí Nguyễn Sỹ Sách chịu trách nhiệm lãnh đạo lao B, đồng chí Trần Văn Cung lãnh đạo lao A.
Các anh báo cho nhau bằng cách chuyển vỏ chuối viết dòng chữ: “bỏ ngậm
thẻ, không đi làm, tuyệt thực, đấu tranh bắt chúng phải nhượng bộ”.
Trưa ngày 19/12/1929, đến giờ ăn cơm nhưng anh em tù chính trị ở lao A
và lao B không đi ăn. Lúc 13 giờ chiều, đến giờ đi làm nhưng không thấy
tù nhân dãy lao A và B ra, tên quản ngục xuống gặp nhưng anh em tù chính
trị yêu cầu cho gặp tên đồn trưởng Pháp Công bơ. Tên đồn trưởng đến
phỉnh phờ doạ nạt không được; Đến 15 giờ tên Công bơ cho lính bắt đồng
chí Trần Văn Cung, Nguyễn Ngọc Tuyết và Nguyễn Kính nhốt vào xà lim.
Đồng chí Trần Văn Cung hô to: “Anh em tù chúng ta kiên quyết đấu tranh
đến cùng để đòi thực hiện 7 yêu sách”.
Chiều hôm đó, anh em lao A và B tiếp tục tuyệt thực đòi thả những người
bị bắt vào xà lim. Chúng phải thả đồng chí Nguyễn Ngọc Tuyết và Nguyễn
Kính, còn đồng chí Trần Văn Cung chúng cho là đầu sỏ nên không thả. Tên
Công bơ tiếp tục quay sang lao B để mua chuộc anh em tù. Dưới sự lãnh
đạo của đồng chí Nguyễn Sỹ Sách, anh em tù hô to khẩu hiệu đòi thực hiện
7 yêu sách. Tên Công bơ cho lính bắt đồng chí Dương Đình Thuý(quê Quỳnh
Lưu, Nghệ An), Phan Cự Đệ(con trai cụ Phan Bội Châu), Nguyễn Lợi(quê ở
Vinh) vào xà lim và sau đó cho lính vào bắt Nguyễn Sỹ Sách. Đồng chí
Nguyễn Sỹ Sách đã kêu gọi anh em tù quyết tâm tuyệt thực đòi chúng thực
hiện các yêu sách đã nêu trên và dùng chiếc chiếu đánh vào tên Công bơ.
Tên này dùng súng lục bắn Nguyễn Sỹ Sách và anh đã hy sinh vào hồi 19
giờ ngày 19/12/1929.
Anh em tù tiếp tục tuyệt thực đến ngày thứ sáu, toà khâm sứ Trung Kỳ
phải cho người lên Lao Bảo kiểm tra. Cuộc tuyệt thực tạm nghỉ, nhưng anh
em tù chính trị bãi công không đi làm kéo dài đến tận ngày 1/5/1930;
buộc bọn thực dân Pháp phải thực hiện các yêu sách nêu trên. Đây là một
thắng lợi bước đầu của anh em tù chính trị ở Lao Bảo.
Về sự kiện này Toà khâm sứ Trung Kỳ trong báo cáo chính trị quý 4 năm
1929 đã nêu rõ: “ Một số tên nguy hiểm vừa bị kết án, được giải đi Lao
Bảo ngày 4/12...những tên Trần Văn Cung và Vương Thúc Oánh bị Toà án
Vinh kết án tư rhình, chuyển thành án khổ sai chung thân đày đi Guy am
và được đưa về Lao Bảo để chờ ngày chuyển sang xứ thuộc địa đó. Sự có
mặt của hai tù chính trị đó tại nhà lao đã làm xáo trộn sự yên tĩnh của
nhà tù. Chúng phải được xem là những kẻ phiến động, nhất là Trần Văn
Cung, những việc nổ ra ở Lao Bảo mấy ngày sau khi chúng đến” (Báo cáo
chính trị quý 4-1929 lưu tại Bảo tàng XVNT).
Trong nhà tù Lao bảo, đồng chí Trần Văn Cung được địch coi là phần tử
nguy hiểm. Mặc dù bị giam giữ với chế độ quản lý chặt chẽ nhưng các đồng
chí vẫn tổ chức học tập sinh hoạt Đảng đều đặn. Các đồng chí chủ trương
tăng cường đấu tranh với địch, tổ chức một hội những người tù dấu tù
dấu tên dấu tuổi, hội có chi bộ Đảng. Chi bộ gồm có Trần Văn Cung, lê Sỹ
Thuận, Nguyễn Sơn Trà, Nguyễn Tuất, Nguyễn Quýnh. Trong chi bộ có ban
vạn động binh lính, ban vận đọng dân làng, ban huấn luyện lý thuyết, ban
phụ trách nhóm, ban ấn loát...Mặc dù ít người, song các ban làm việc
với trách nhiệm cao.
Sau khi phong trào XôViết Nghệ Tĩnh nổ ra, thực dân pháp mở rộng và củng
cố lại nhà tù Lao Bảo. Chúng xây thêm các lao như: lao C, D và xây thêm
lao hầm E(nằm dưới nền lao chính). Các tù chính trị tham gia các cuộc
đấu tranh hò la và tuyệt thực kỷ niệm 1 năm ngày mất của Nguyễn sỹ sách,
tham gia cuộc đấu tanh đòi đưa ra khỏi lao hầm tháng 6/1932, như: đồng
chí Võ Mai tuyệt thực gần một tháng ròng, Trần Văn Cung, Nguyễn Tuân,
Trần Hướng, Nguyễn Liên bị nhốt xà lim hàng tháng ròng..Trải qua các
cuộc đấu tranh đó các đồng chí trưởng thành hơn. Tù nhân ở các tỉnh lên
Lao Bảo ngày càng đông. Lực lượng tù chính trị được bổ sung. Trước yêu
cầu của tình hình mới, ban chấp hành trung ương nhà đày đưwcj thành lập.
Ban có nhiệm vụ lãnh đạo và tổ chức các hoạt động trong nhà tù. Nhà tù
lao Bảo thực sự là một trường học cách mạng.
Các đồng chí mở các lớp quốc ngữ, học tập chủ nghĩa Mác- Lê nin. Trần
Văn Cung chuyên giảng bài về cách mạng thế giới, cứ theo cách giảng in
trong cuốn “Đường kách mệnh”. Anh giảng bài hay, thu hút người nghe và
cứ y như là có sẵn sách. Nhất là khi anh giảng đến Cách mạng tháng Mười
nga, anh em tù nhân bàn luận sôi nổi vềc cuộc cách mạng Nga năm 1905,
cáh mạng tháng Mười năm 1917, quan hệ cách mạng Nga với cách mạng Việt
Nam, Đệ tam quốc tế cộng sản...Các bài giảng của anh đều được đồng chí
Lê Sỹ Thuận chép lại và đóng thành cuốn sách cỡ 10 cm x 7 cm chuyền tay
nhau học tập nghiên cứu. Việc đưa giấy vào nhà lao quả là một công việc
vất vả. Giấy bút được dấu trong ống phân hai đáy và chỉ có người nào có
trách nhiệm thì mới biết được ống nào có giấy. Công việc chép tài liệu
học tập do Lê sỹ Thuận, Trần Hữu Dực, TrươngVăn Lĩnh và Cố Sài đảm
nhiệm.
Trong thời gian Trần Văn Cung bị tù ở Lao Bảo, vợ anh là Trần Thị Liên
hoạt động rất tích cực trong tổ chức phụ nữ. Cuối năm 1931, chị bị bắt
và bị toà án Nam triều tỉnh Nghệ An kết án 1 năm tù và 9 tháng quản
thúc. Trong thời gian chị bị giam trong nhà tù thực dân Pháp thì đứa con
gái bé bỏng của chị không nuôi được vì thiếu sữa. Căm thù chồng chất,
tháng 8/1932 ra tù chị lại tiếp tục hoạt động cách mạng. Tháng 4/1933,
chị cùng Nguyễn Thị Hồng(vợ đồng chí Nguyễn Sỹ Sách) lên nhà tù Lao Bảo
xin bốc hài cốt đồng chí Nguyễn Sỹ Sách đưa về quê; nhưng công sứ Pháp
tại Quảng Trị không cho phép mặc dù toà Khâm sứ Trung Kỳ đã phê duyệt
đơn. Hai người phải trở về. Ngày 8/10/1935, chị Liên bị bắt tại Phủ Quỳ
trong lúc đang rải truyền đơn. Toà án Nam triều xử chị 2 năm tù giam và 2
năm quản thúc. Ngày 15/7/1936 chị được trả tự do. Cùng thời gian này,
do phong trào đấu tranh của nhân dân ta phát triển mạnh và thắng lợi của
Mặt trận Bình dân Pháp ở chính quốc, thực dân Pháp ở Đông Dương buộc
trả tự do cho một số tù chính trị, trong đó có đồng chí Trần Văn Cung.
Chị Liên vào Quảng Trị đón chồng và hai người vào Nha Trang sinh sống.
Tháng 4/1938, hai vợ chồng đồng chí Trần Văn Cung về Vinh sống ở nhà bố
mẹ vợ là Trần Khắc Am(một cơ sở cách mạng ở làng Vang). Lúc này người
anh trai của chị Liên cũng vừa được trả tự do tù nhà tù Buôn Ma Thuột.
Chị Liên tham gia xây dựng “Tiệm may phụ nữ” của thành phố Vinh. Đây là
cơ sở kinh tài và nơi đi lại của Đảng. các chị góp cổ phần cho tiệm may
như chị Nguyễn Thị Nhuận, chị Phan Thị Hảo.. .Các chị tham gia tích cực
trong phong trào phụ nữ dân chủ, phụ nữ cứu quôc. Sau cách mạng tháng
Tám 1945, chị TrầnThị liên hoạt đông tích cực trong phong trào phụ nữ
của tỉnh nhà, chị được bầu làm Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Nghệ An
từ năm 1948- 1954.
Sau khi ra tù, mặc dù bị quản thúc những đồng chí Trần Văn Cung vẫn tìm
cách liên lạc với các đồng chí Nguyễn Thị Nhuận, Nguyễn Lợi, Nguyễn Ngọc
Tuyết ... tham gia hoạt động công khai theo định hướng lãnh đạo của
Đảng như: mở cửa hàng bán sách báo tiến bộ, ủng hộ công nhân dấu tranh,
tham gia phong trào đón Gô đa...Ngày 26/9/1939, đồn chí Nguyễn Nhật
Tân(tức Siêu Hải- Bí thư Khu uỷ Vinh), bị chết sau khi bị bắt và đang
thực hiện ca phẫu thuật tại nhà thương Vinh, Trần Văn Cung và các đòng
chí Võ Trọng Bành, Võ Trọng Ân, Thái văn Khuê đã họp tại “Hiệu xe đạp
Tân Phong” để bàn chương rình tổ chức lễ truy điệu đồng chí Siêu Hải
thật trọng thể và bin cuộc đưa đám thành cuộc mít tinh diễu hành trong
thành phố Vinh. Các đồng chí chuẩn bị băng cờ khẩu hiệu . Hơn 300 người
đưa tang đồng chí Siêu Hải. Đám tang đã gây tiếng vang lớn; tên của Trần
Văn Cung và Trần Thị Liên lại được ghi vào sổ đen của mật thám Pháp.
Cuối năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp thẳng
tay đàn áp phong trào cáh mạng ở Đông Dương. Nhiều đồng chí cán bộ cách
mạng bị bắt có một số nằm im chờ thời cơ cách mạng mới. Đầu năm 1945
đồng chí Nguyễn Xuân Linh liên lạc được với Trung ương Đảng và vận động
thành lập Việt Minh Nghệ Tĩnh. Ngày 19/5/1945, Hội nghị thành lập Việt
Minh liên tỉnh tại nhà đồng chí Mười Uyển. Đồng chí Nguyễn Xuân Linh là
trưởng ban chỉ đạo. Đồng chí Trần Văn Cung là một trong những người tham
gia thành lập Việt Minh. Ngày 8/8/1945, Việt Minh Liên tỉnh tổ chức Đại
hội chuẩn bị kế hoạch Tổng khởi nghĩa tại nhà đồng chí Hoàng Viễn(xã
Hưng Châu, huyện Hưng Nguyên), đồng chí Trần Văn Cung được phân công
cùng đồng chí Nguyễn Tạo phụ trách chỉ đạo khởi nghĩa phân khu Vinh- Bến
Thuỷ. Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí Trần Văn Cung công tác ở
khối Mặt trận Việt Minh.
Tháng 1/1946, đòng chí Trần Văn Cung và Nguyễn Tạo được Đảng và Việt
Minh Nghệ Tĩnh giới thiệu ra tranh cử và trúng đại biểu Quốc hội khu vực
Vinh - Bến Thuỷ. Tại kỳ họp thứ nhất của Quôốchội nước Việt nam Dân chủ
cộng hoà(tháng 3/1946), đồng chí Trần Văn Cung đã có những đóng góp lớn
trong việc xây dựng nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Thường trực Quốc hội.
Tại kỳ họp thứ hai tháng 11/1946, đồng chí Trần Văn Cung được bầu là uỷ
viên chính thức của Ban Thường trực Quốc hội.
Kỳ họp thứ tư của Quốc hội tháng 3/1955, đồng chí Trần Văn Cung là uỷ
viên chính thức Ban Thường trực Quốc hội. Năm 1957 do yêu cầu công tác,
Trung ương cử một số đồng chí uỷ viên Thường trực Quốc hội đi nhận nhiệm
vụ khác. Đồng chí Trần Văn Cung chuyển sang làm phó Giám đốc – Bí thư
Đảng uỷ trường Kinh tế Tài chính Trung ương trực thuộc Thủ tướng phủ sau
này là trường Đại học kinh tế kế hoạch. Giám đốc nhà trường là đòng chí
Nguyễn Văn Tạo kiêm Bộ trưởng Bộ lao động. Đồng chí Trần Văn Cung là
đại biểu Quốc hội hết nhiệm kỳ năm 1960.
Năm 1967 đồng chí Trần Văn Cung nghỉ hưu, năm 1977 đồng chí tạ thế do bị bệnh hiểm nghèo.
Cuộc đời của đồng chí Trần Văn Cung đã để lại một tấm gương sáng cho thế hệ con cháu noi theo.
Lê Thị Hạnh Phúc. Nguồn: Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh
|